Saturday 30 January 2010

Viet su - bai 5



Việt Nam sử lược

Biển Ðông
Ngày 30/01/2010

Biển Ðông nhận thấy việc quảng bá lịch sử đất nước Việt Nam chúng ta là một việc cần làm trong bối cảnh hiện nay. Vì thế, Biển Ðông sẽ cố gắng phổ biến hai quyển “Việt Nam sử lược” do Cụ Trần Trọng Kim biên soạn và được Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VNCH xuất bản từ năm 1971. Ðược nhà sách Ðại Nam ở Cali/USA tái xuất bản nhiều năm trước đây. Biển Ðông sẽ phổ biến từng bài 2 hoặc 3 trang đánh máy, mỗi tháng 2 kỳ trên Blog Biển Ðông, khởi đầu từ bài “Nước Việt Nam”. Biển Ðông xin Quí vị thứ lỗi vì không phổ biến “Lời Tựa”; và không có chữ “nho” như trong sách – vì Biển Ðông không biết chữ… nho.
Trân Trọng



===<0>===

Bài: 5


4.Binh-chế




Binh-chế nhà Hạ và nhà Ân thì không rõ, đến đời nhà Chu thì đặt 5 người làm một ngũ; 5 ngũ tức là 25 người làm một lượng; 4 lượng tức là 100 người làm một tốt; 5 tốt tức là 500 người làm một lữ; 5 lữ tức là 2.500 người làm một sư; 5 sư tức là 12.500 người làm một quân.


Quân thì đặt quan mạnh-đan làm tướng, sư thì đặt quan trung đại-phu làm súy, tốt thì đặt quan thượng-sĩ làm trưởng, lượng thì đặt quan trung-sĩ làm tư-mã. Thiên-tử có 6 quân; còn những nước chư-hầu, nước nào lớn thì có 3 quân, nước vừa có 2 quân, nước nhỏ 1 quân.


Trong nước chia ra làm tỉnh, mỗi tỉnh 8 nhà, 4 tỉnh làm một ấp, 32 nhà; 4 ấp làm một khâu, 128 nhà; 4 khâu làm một điện, 512 nhà. Cứ mỗi điện phải chịu một cỗ bình-xa, bốn con ngựa, 12 con bò, 3 người giáp-sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người để khiêng-tải những đồ nặng. Cả thảy 100 người.


5. Ðiền-chế


Về đời thái-cổ thì không biết cách chia ruộng đất ra làm sao. Từ đời nhà Hạ trở đi thì chia 50 mẫu làm một gian, 10 gian là một tổ. Cứ 10 nhà cày một lô ruộng, hoa-lợi được bao nhiêu chia làm 10 phần, nhà nước lấy một, gọi là phép cống.


Nhà Ân và nhà Chu thì dùng phép tỉnh-điền, nghĩa là chia đất ra làm chín khu hình chữ tỉnh. Những khu ở chung quanh làm tư-điền, khu ở giữa để làm công điền. Mỗi một tỉnh cho 8 nhà ở, đều phải xuất lực cày-cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho nhà vua. Về đời nhà Ân thì mỗi tỉnh có 630 mẫu, mỗi nhà được 70 mẫu; phép đánh thuế gọi là phép trợ. Ðến đời nhà Chu thì mỗi tỉnh có 900 mẫu, mỗi nhà 100 mẫu, phép đánh thuế gọi là phép triệt.


Nhà Chu lại đặt ra lệ cứ 20 tuổi thì được 100 mẫu ruộng, đến 60 tuổi thì trả lại cho nhà nước. Nhà nào có con thứ nhì gọi là dư phu đến 16 tuổi thì được lĩnh 25 mẫu ruộng.


Nhờ có phép chia ruộng như thế cho nên lúc bấy giờ không có người nào nghèo lắm mà cũng không có người giàu lắm. Về sau đến đời Chiến-quốc, người Lý Khôi làm tướng nước ngụy, bắt dân hết sức làm ruộng, không định hạn như trước nữa; người Thương Ưởng làm tướng nước Tần, bỏ phép tỉnh-điền, mở thiên-mạch, cho mọi người được tự tiện làm ruộng. Phép chia đất từ đó mới mất dần dần đi.


6- Học-hiệu


Nhà Hạ đặt nhà Ðông-tự làm đại-học, Nhà Tây-tự làm tiểu-học. Nhà Ân đặt nhà Hữu-học làm đại-học, nhà Tả-học làm tiểu-học. Những nhà đại-học, tiểu-học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già cả và để tập văn nghệ.


Nhà Chu thì đặt nhà Tích-ung hoặc nhà Thành-quân làm nhà đại-học, để cho con vua, con các quan và những người tuấn-tú tuyển ở các thôn-xã đến học; còn ở châu, ở đảng (cứ 12.500 nhà một châu, và 500 nhà làm một đảng thì có nhà Tự, ở đảng thì có nhà Tường.) thì đặt nhà tiểu-học gọi là Tự và nhà Tường để cho con dân gian vào học. Lại đặt lệ cứ từ 8 tuổi đến 14 tuổi làm niên-hạn cho tiểu-học, từ 15 đến 20 tuổi, làm niên-hạn cho đại-học. Ðại học thì dạy lễ, nhạc, thi, thư; tiểu-học thì dạy cách kính trên nhường dưới và cách ứng đối, v.v…


7- Học-thuật


Học thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đã thịnh lắm, cho nên đến đời Xuân-thu có nhiều học-giả như Lão-tử bàn đạo; Khổng-tử bàn hiếu, lễ, nhân, nghĩa; Mặc Ðịch bàn lẽ kiêm-ái, nên chuộng sự tiết-kiệm bỏ âm nhạc; Dương Chu thì bàn lẽ vị-kỷ, nên tự trọng thân mình và không chịu thiệt mình để lợi người.


Lại có những pháp-gia như Thân Bất-Hại. Hàn Phi bàn việc trị thiên-hạ thì chỉ nên dùng nhân-nghĩa. Còn những người như Quỷ Cốc Thi Giảo, Ðiền Biền v.v…, mỗi người xướng một học-thuyết để dạy người đương thời.


8- Phong-tục


Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn-bán cũng phát đạt cả. Dân trong nước chia ra là 4 thứ: sĩ, nông, công, thương, nhưng mà con người làm quan lại làm quan, con người làm ruộng cứ làm ruộng, chứ con người làm ruộng không được làm quan. Tuy vậy, đến đời Xuân-thu những người như dân lên làm tướng văn tướng võ cũng nhiều.


Ÿ trong gia-đình thì già trẻ trên dưới phân-biệt nghiêm lắm. Con phải theo cha, vợ phải theo chồng, con-trai con-gái từ 7 tuổi trở đi là không được ăn một mâm, nằm một chiếu nữa. Con trai 30 tuổi mới lấy vợ, gái 20 tuổi mới lấy chồng mà hai người cùng họ không được lấy nhau.


Nước Tàu về đời Tam-đại cũng sùng sự tế-tự lắm. Thường cúng-tế thiên, địa, nhật, nguyệt, trạch. Nhà vua lập đàn Nam-giao để tế Thượng-đế. Lại có nhà Xã-tắc để tế Thổ-thần và Hậu-tắc. Còn sự thờ-phụng tổ-tiên thì từ vua cho đến thứ-dân đều lấy làm một việc rất quan-trọng trong đời người.


Xem như thế, thì xã-hội nước Tàu về đời Tam-đại đã văn-minh lắm, nhưng sau đến cuối đời nhà Chu, vì nhà vua suy-nhược, cho nên chư-hầu, kẻ xưng vương rồi tranh nhau, đánh nhau như Ngũ Bá đời Xuân-thu, Thất-hùng đời Chiến-quốc, làm cho trăm họ lầm-than khổ-sở.


Sau nhà Tần thống-nhất đuợc thiên-hạ, mới bỏ lệ phong-kiến, lập ra quân-huyện; bỏ phép tỉnh-điền, lập thiên-mạch; cấm nho-học, đốt sách vở, việc chính trị thì cốt dùng pháp-luật, để lấy quyền-lực mà áp-chế.


Ðang khi phong-tục nước Tàu biến-cải như thế, thì Triệu Ðà lập ra nước Nam-việt (xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-việt của nước Việt Nam ngày nay), đem văn minh nước Tàu sang truyền-bá ở phương-nam, cho nên từ đó về sau người nước mình đều nhiễm cái văn-minh ấy.


(Còn tiếp bài 6)


Trở lại Trang Sử Việt





Biển Ðông

Saturday 16 January 2010

Viet su - bài 3

Việt Nam sử lược


Biển Ðông
Ngày 2 –1 – 2010


Biển Ðông nhận thấy việc quảng bá lịch sử đất nước Việt Nam chúng ta là một việc cần làm trong bối cảnh hiện nay. Vì thế, Biển Ðông sẽ cố gắng phổ biến hai quyển “Việt Nam sử lược” do Cụ Trần Trọng Kim biên soạn và được Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VNCH xuất bản từ năm 1971. Ðược nhà sách Ðại Nam ở Cali/USA tái xuất bản nhiều năm trước đây. Biển Ðông sẽ phổ biến từng bài 2 hoặc 3 trang đánh máy, mỗi tháng 2 kỳ trên Blog Biển Ðông, khởi đầu từ bài “Nước Việt Nam”. Biển Ðông xin Quí vị thứ lỗi vì không phổ biến “Lời Tựa”; và không có chữ “nho” như trong sách – vì Biển Ðông không biết chữ… nho.

Trân Trọng

========

Bài 3:

Truyện này là tục truyền như vậy, chứ không có lẽ tin làm sự thực được. Họa chăng đời bấy giờ có người tướng giỏi, đánh được giặc, về sau người ta nhớ ơn làm đền thờ thì hợp lẽ hơn. Hiện bây giờ có đền thờ ở làng Gióng tức là làng Phù-đổng. Năm nào đến mồng 8 tháng tư cũng có hội vui lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.


Truyện Sơn-tinh, Thủy-tinh


Tục truyền rằng vua Hùng-vương thứ 18 có người con gái là tên Mỵ-nương, nhan sắc tuyệt trần. Sơn-tinh và Thủy-tinh đều muốn hỏi làm vợ. Hùng vương hẹn rằng ngày hôm sau ai đem đồ lễ đến trước thì gả cho người ấy. Ngày hôm sau Sơn-tinh đến trước lấy được Mỵ-nương đem về núi Tản-viên (tức là núi Ba-vì ở tỉnh Sơn-tây).


Thủy-tinh đến sau, thấy Sơn-tinh lấy mất Mỵ-nương, tức giận vô cùng, mới làm ra mưa to gió lớn, rồi dâng nước lên đánh Sơn-tinh. Sơn-tinh ở trên núi không việc gì: hễ nước lên cao bao nhiêu, thì Sơn-tinh làm núi cao bấy nhiêu. Sơn-tinh lại dùng sấm-sét đánh xuống, Thủy-tinh phải rút nước chạy về. Từ đó Sơn-tinh và Thủy-tinh thù nhau, mỗi năm đánh nhau một lần, dân gian thực là cực khổ.


Truyện này là vì ở Bắc-việt năm nào đến tháng 6 tháng 7 cũng có nước lũ trên mạn ngược chảy xuống tràn vào trong đồng-áng, ngập mất cả ruộng đất. Người ta không hiểu là tại lẽ gì, mới tưởng tượng mà đặt ra câu chuyện Sơn-tinh Thủy-tinh đánh nhau vậy.


Tóm lại mà xét, nước ta khởi đầu có quốc-sử từ cuối thập-tam thế kỷ: đến đời vua Thánh-tông nhà Trần, mới có quan Hàn-lâm-sĩ là Lê-văn-Hưu soạn xong bộ Ðại-Việt sử-ký, chép từ Triệu-Võ-vương đến Lý-Chiêu-hoàng. Hai trăm rưỡi năm về sau lại có ông Ngô-Sĩ-Liên, làm quan Lễ-bộ tả-thị-lang đời vua Thánh-tông nhà Lê, soạn lại bộ Ðại-Việt sử-ký: chép từ họ Hồng-bàng đến vua Lê-Thái-tổ. Nghĩa là từ ông Ngô-sĩ-Liên, ở về thập-ngũ thế-kỷ trở đi, thì sử ta mới chép truyện về đời Thượng-cổ. Xem thế thì đủ biết những chuyện về đời ấy khó lòng mà đích-xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt-nhạnh những chuyện hoang-đường tục-truyền lại, cho nên những truyện ấy toàn là truyện có thần-tiên quỉ-quái, trái với lẽ tự-nhiên cả.


Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu thì mờ-mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc-tích mình ở chỗ thần-tiên để cho vẻ-vang cái chủng loại của mình. Chắc cũng bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng-bàng là con tiên cháu rồng v.v…


Nay ta theo sử cũ mà chép mọi truyện, người xem sử nên phận-biệt truyện nào là truyện thực, truyện nào là truyện đặt ra, thì sự học mới có lợi vậy.


Nhà Thục


(257-207 tr. Tây-lịch)


1. Gốc-tích nhà Thục


2. Nước Âu-lạc


3. Nhà Tần đánh Bách-việt


4. Nhà Thục mất nước



1. Gốc-tích nhà Thục


Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nước Thục bên Tàu, vì rằng cứ theo sử nước Tàu thì đời bấy giờ đất Ba-thục (Tứ-xuyên) đã thuộc về nhà Tần cai trị rồi, thì còn có vua nào nữa. Vả, sử lại chép rằng khi Thục-vương Phán lấy được nước Văn-lang thì đổi quốc-hiệu là Âu-lạc tức là nước Âu-lạc gồm cả nước Thục và nước Văn-lang. Song xét trong lịch sử không thấy đâu nói đất Ba-thục thuộc về Âu-lạc. Huống chi lấy địa-lý mà xét thì từ đất Ba-thục (Tứ-xuyên) sang đến Văn-lang (Bắc-việt) cách bao nhiêu đường đất và có bao nhiêu núi sông ngăn trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước Văn-lang dễ-dàng như vậy? Sử cũ lại có chỗ chép rằng An-dương-vương họ là Thục tên là Phán. Như vậy chắc hẳn Thục tức là một họ nào độc-lập ở gần nước Văn-lang, chứ không phải là Thục bên Tàu. Sách “Khâm-định Việt-sử” cũng bàn như thế.


2. Nước Âu-lạc


Sử chép rằng Thục-vương hỏi con gái Hùng-vương thứ 18, là Mị-nương không được, trong bụng lấy làm tức giận, dặn con cháu ngày sau đánh báo thù lấy nước Văn-lang. Hùng-vương bấy giờ cậy mình có binh cường tướng dũng, bỏ trễ việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người cháu Thục-vương tên là Phán biết tình-thế ấy, mới đem quân sang đánh lấy nước Văn-lang. Hùng-vương thua chạy, nhảy xuống giếng mà tự-tử.


Năm giáp-thìn (275 tr. Tây-lịch), Thục-vương dẹp yên mọi nơi rồi, xưng là An-dương-vương, cải quốc-hiệu là Âu-lạc, đóng-đô ở Phong-khê (nay thuộc huyện Ðông-anh, tỉnh Phúc-an). Hai năm sau là năm bính-ngọ (255 tr. Tây-lịch) An-dương-vương xây Loa-thành. Thành ấy cao và từ ngoài vào thì xoáy trôn ốc cho nên mới gọi là Loa-thành. Hiện nay còn dấu-tích ở làng Cổ-loa, huyện Ðông-anh, tỉnh Phúc-an.


Nhà Tần đánh Bách-việt


Khi An-dương-vương làm vua nước Âu-lạc ở bên này, thì ở bên Tàu vua Thỉ-hoàng nhà Tần đã nhất-thống thiên-hạ. Ðến năm đinh-hợi (214 tr. Tây-lịch) Thỉ-hoàng sai tướng là Ðồ Thư đem quân đi đánh lấy đất Bách-việt (vào quãng tỉnh Hồ-nam, Quảng-đông và Quảng-tây bây giờ). An-dương-vương cũng xin thần-phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách-việt và đất Âu-lạc ra làm ba quận, gọi là Nam-hải (Quảng-đông), Quế-lâm (Quảng-tây) và Tượng-quân (Bắc-việt).


Người bản xứ ở đất Bách-việt không chịu để người Tàu cai-trị, trốn vào rừng ở. Ðược ít lâu quân của Ðồ Thư, vốn là người ở phương-bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách-việt thừa kế nổi lên giết được Ðồ Thư.


Nhà Thục mất nước


Chẳng được báo lâu thì nhà Tần suy, nước Tàu cò nhiều giặc-giã, ở quận Nam-hải có quan úy là Nhâm-Ngao thấy có cơ hội, muốn mưu đánh lấu Âu-lạc để lập mốt nước tự chủ ở phương nam. Nhưng công việc chưa thành, thì Nhâm Ngao mất. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh quyền lại cho Triệu Ðà để thay mình làm quan úy quận Nam-hải.


Năm quí-tị (208 tr. Tây-lịch) là năm thứ 50 đời vua An-dương-vương, Triệu Ðà đem quân sang đánh lấy nước Âu-lạc, lập ra nước Nam-việt. (Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-việt của nước Việt-nam hiện nay.)


(Còn tiếp)

Trở lại Trang Sử Việt



Biển Ðông

Viet su - bài 4


Việt Nam sử lược

Biển Ðông
Ngày 16/01/2010


Biển Ðông nhận thấy việc quảng bá lịch sử đất nước Việt Nam chúng ta là một việc cần làm
trong bối cảnh hiện nay. Vì thế, Biển Ðông sẽ cố gắng phổ biến hai quyển “Việt Nam sử lược”
do Cụ Trần Trọng Kim biên soạn và được Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VNCH
xuất bản từ năm 1971. Ðược nhà sách Ðại Nam ở Cali/USA tái xuất bản nhiều năm trước
đây. Biển Ðông sẽ phổ biến từng bài 2 hoặc 3 trang đánh máy, mỗi tháng 2 kỳ trên Blog
Biển Ðông, khởi đầu từ bài “Nước Việt Nam”. Biển Ðông xin Quí vị thứ lỗi vì không phổ biến
“Lời Tựa”; và không có chữ “nho” như trong sách – vì Biển Ðông không biết chữ… nho.
Trân Trọng

===&===

Bài: 4


Ÿ đấy có nhiều cây-cối và có nhiều chim công, cho nên tục gọi là đền Công hay Cuông).


Trọng Thỉ về kể lại với Triệu Ðà tinh đầu mọi sự, Triệu Ðà bèn khởi binh sang đánh Âu-lạc,
An-dương-vương cậy có
cái nỏ, không phòng bị gì cả, đến khi quân giặc đến gần chân thành
mới đem nỏ ra
bắn, thì không thấy hiệu nghiệm nữa. An-dương-vương mới đem Mị Châu lên
ngựa mà chạy về phía
nam. Chạy đến núi Mộ-dạ (thuộc huyện Ðông-thành tỉnh Nghệ-an) gần
bờ bể, vua
thấy giặc đuổi kíp quá, mới khẩn Kim-qui lên cứu. Kim-qui lên nói rằng:
“Giặc ngồi sau lưng
nhà vua đấy!” An-dương-vương tức giận quá, rút gươm ra chém Mị-châu
đi, rồi
nhảy xuống bể mà tự tận. ((Nay ở trên núi Mộ-dạ, gần xã Cao-ái, huyện Ðông-thành,
tỉnh
Nghệ-an, có đền thờ An-dương-vương.
Chương II

Xã-hội nước Tàu
Về đời Tam đại và đời nhà Tần

1. Phong-kiến

2. Quan-chế

3. Pháp-chế
4. Binh-chế
5. Ðiền-chế

6. Học-hiệu

7. Học-thuật

8. Phong-tục


Khi Triệu Ðà sang đánh An-dương-vương thì ở bên Tàu nhà Tần đã suy, nhà Hán sắp lên làm
vua, nước Tàu đang vào lúc đại loạn, phong-tục, chính-trị đều đổi khác cả. Vả lại Triệu Ðà là
người Tàu, làm quan nhà Tần, cho nên đến khi lấy được Âu-lạc, gồm cả các quận ở phương-
nam, lập làm một nước tự-chủ, bèn đem chính-trị, pháp-luật nước Tàu sang cai trị đất Nam-việt
(Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-việt của nước Việt-nam hiện nay). Vậy trước

khi nói đến chuyện nhà Triệu, ta nên xét-xem xã-hội nước Tàu lúc bấy giờ là thế nào.


1- Phong kiến

Nguyên về đời thái-cổ, nước Tàu chia ra từng địa phương một. Mỗi một địa phương thì có một
người làm-thủ lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư-hầu,phải triều cống nhà vua.


Số những nước chư-hầu ấy thì mỗi đời một khác. Xem như khi vua Ðại-vũ nhà Hạ, hội các
nước chư-hầu ở núi Ðồ-sơn, kể có hang vạn nước. Ðến khi vua Vũ-vương nhà Chu đi đánh
Trụ-vương nhà Ân, thì các nước chư-hầu hội lại cả thảy được 800 nước.


Ðánh xong nhà Ân, vua Vũ-vương phong cho hơn 70 người làm vua chư-hầu, chia ra làm 5 bậc
là: công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho người tước công, tước hầu thì rộng 100 dặm
gọi là đại-quốc; nước phong cho người tước thì rộng 70 dặm, gọi là trung-quốc; nước
phong cho người tước tử, tước nam thì rộng 50 dặm, gọi là tiểu quốc. Những nước không
đủ 50 dặm, thì gọi là nước phụ-dung.



2- Quan chế

Nhà Hạ đặt tam-công, cửu-khanh, 27 đại-phụ, 81 sĩ-nguyên.

Nhà Ân đặt hai quan tướng, sáu quan thái là: thái-tể, thái-tông, thái-tử, thái-thúc, thái-sĩ, thái-
bốc; năm quan là: tư-đồ, tư-mã, tư-không, tư-sĩ, tư-khấu; sáu phủ là: tư-thể, tư-mộc, tư-thủy,
tư-thảo, tư-khí, tư hóa; sáu công là: thổ-công, kim-công, thạch-công, thủy-công, thú-công và
thảo-công.


Ðến nhà Chu, ông Chu-công đặt ra sáu quan gọi là: thiên-quan, địa-quan, xuân-quan, hạ-quan,
thu-quan, đông-quan. Mỗi một quan lại có 60 thuộc-quan, cộng cả lại là 360 người.


Người làm đầu thiên-quan, gọi là trủng-tể, thống cả việc chính trị trong nước, việc thu nạp cả
năm và mọi việc ở trong cung. Người làm đầu địa-quan gọi là đại-tư-đồ giữ việc nông, việc
thương, việc giáo-dục và việc cảnh-sát. Người là đầu xuân-quang gọi là đại-tông-bá, giữ việc
tế, tự, triều, sinh, hội-đồng v.v… Người làm đầu hạ-quan gọi là đại-tư-mã, giữ việc binh mã và
việc đi đánh dẹp. Người làm đầu thu-quan, gọi là đại-tư-khấu. giữ việc dân, việc hình và việc
kiện-tụng. Người làm đầu đông-quan gọi là đại-tư-không, giữ việc khuyến-công, khuyến-nông
và việc thổ-mộc v.v…


Trên lục quan lại đặt tam-công, là: thái-sư, thái-phó, thái-bảo, tam cô là: thiếu-sư, thiếu-phó,
thiếu-bảo, để bàn xét việc trị nước yên dân, chứ không dự vào việc hành-chính’


3- Pháp chế

Về đời thái-tổ thì có năm hình, ngoài năm hình lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Ðến
đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu thì lại đặt phép chặt chân, gọt đầu và tội đồ. Ðến cuối đời nhà
Chu thì đặt ra tội bêu đầu, xé thây, lăng-trì, mổ, muối v.v…


(Còn tiếp - Xin đọc tiếp)


Trở lại Trang Sử Việt


Biển Ðông