Saturday 29 May 2010

Home


Welcome home

Biển Ðông chào mừng Quý đọc giả.




       Trang Sử Việt

       Tiểu thuyết

       Nhạc và Thơ

       Quan điểm thời sự


             

Tuesday 25 May 2010

Giot mua


Biển Ðông xin giới thiệu nhạc phẩm


       Giọt mưa phương Nam
                                                                                           Thơ: Ðặng Nguyệt Anh (Hoàng Cầm)
                                                                                            Nhạc & Hòa âm: Ngô Ðình Thiện
Trở lại Trang Nhạc Việt


Cách Download và in nhạc được rõ ràng, xin theo những bước sau:
  1. Click vào "Download nhạc phẩm "********"
  2. Saving vào Hard disk
  3. Mở file bằng program Adobe Photoshop hay bằng một program photo khác.
  4. Chọn "Print with Preview"
  5. Chọn "Scale to fit Media"
  6. Click vào "Page setup", rồi chọn "Landscape" cho Nhạc hay "Portrait" cho Hợp âm.
  7. Click Print
  8. Click OK





Saturday 22 May 2010

Cong an nhan dan

Công An Nhân Dân:

Vì Đảng Quên Dân, Vì thân Phục Vụ!


Trở lại Trang Quan điểm thời sự



Lê Minh


Mấy hôm nay dân mạng trong và ngoài nước chuyền nhau bức hình tấm panô treo trước cửa của trụ sở Bộ Công An CSVN tại 44 Yết Kiêu, Hà Nội. Tấm panô này có hàng chữ rất ... kêu và rất phản động: "Công an Nhân dân: Chỉ biết còn Đảng còn mình".


Tấm panô “Công an Nhân dân - Chỉ biết còn Đảng còn mình”


Tại Việt Nam, hầu hết các cơ quan, tổ chức đều có tên gọi đi kèm với “Nhân dân”, chẳng hạn Tòa án Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Quân đội Nhân dân. Đương nhiên lực lượng công an cảnh sát cũng không ngoại lệ, cho nên mới có tên gọi chính thức là Công an Nhân dân (CAND). Đối với trường hợp của tổ chức này thì có mối “gắn bó” với nhân dân “đặc biệt” hơn cả.



Cũng như tất cả lực lượng công an cảnh sát mật vụ tại các nước cộng sản, lực lượng công an CSVN mà tên chính thức là Công an Nhân dân, là cánh tay duy trì quyền lực hữu hiệu nhất của ĐCSVN. Đây cũng chính là lực lượng sắt máu, trung thành tuyệt đối với Đảng, không khác gì chó trung thành với chủ, sẵn sàng cắn xé bất cứ lúc nào, không cần biết đó là những mệnh lệnh đúng sai, hay phi nhân bản. Để đạt được sự phục tùng mệnh lệnh một cách tuyệt đối, không đắn đo, người CAND phải “tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong lời hứa danh dự trước tiên của mình. Cũng chính vì sự trung thành tuyệt đối này của lực lượng CAND mà người dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước phải khổ sở điêu đứng.


Lực lượng CAND được tổ chức chặt chẽ, từ trung ương đến địa phương, đến tận mọi ngóc ngách. Hình ảnh của CAND thuộc mọi thứ bậc, chủng loại đều là những hung thần áo vàng có hình hài giống nhau.


Từ đơn vị nhỏ nhất với viên công an khu vực là tên hung thần dòm ngó, kiểm soát chặt chẽ tình trạng cư trú, làm việc và sinh sống của mỗi người dân, từng hộ gia đình trong khu vực. Trên một nấc là công an phường mà văn phòng là cửa ngõ “đầu tiên” và cũng là nơi tập trung, thuê mướn các tay đầu gấu côn đồ để đàn áp đánh đập dân oan. Văn phòng công an quận là nơi chuyên bắt giữ, thẩm vấn những người yêu nước, hoặc giam giữ người một cách trái phép.


Công an ở cấp tỉnh-thành thì có quyền hơn, chẳng hạn như có thể bắt người giữa phố xá đông người mà không cần tội danh, mà cách “mời về đồn làm việc” rất là vũ lực, chẳng hạn như xúm lại khiêng nạn nhân vứt lên xe đưa về đồn trước những đôi mắt ngạc nhiên của người đi đường qua lại. Trong số những nhà bất đồng chính kiến bị “mời” kiểu này gần đây nhất có Luật sư Lê Trần Luật và LS.Tạ Phong Tần.


Công an cấp tỉnh thành thì có quyền nhiều hơn, có thể dễ dàng quy chụp kết tội “phản động” hoặc các tội danh như “xâm phạm an ninh quốc gia”. Công an Bộ thì phạm vi hoạt động xa hơn, có thể vươn tới tận các nước láng giềng như Thái Lan, Campuchia, bắt cóc nạn nhân đem về xử. Trường hợp của vợ chồng bà Phạm Thị Phượng bị bắt cóc mới đây tại Bangkok là một ví dụ điển hình, và còn được công an Bộ gán cho siêu tội danh “khủng bố” vì một mình có thể “sử dụng thuốc nổ để phá tượng đài Hồ Chí Minh và gây nổ ở nhiều địa điểm công cộng như nhà ga, bến tàu, bệnh viện, trường học…” với giá thật bèo!



Lực lượng công an 113 thì rất nhanh nhạy trong việc trấn áp, mạnh tay với dân oan. Ngoài việc canh gác người sống, cũng kiêm luôn việc canh gác người chết và cướp xác, mà điển hình là vụ trấn áp “thành công” giáo dân ở Cồn Dầu mới đây, và phong tỏa, canh gác nghĩa địa ngày đêm. Công an tôn giáo thì chuyên nghề đàn áp và gây chia rẽ giữa các tôn giáo, mà các vụ Bát Nhã, Thái Hà, Tam Tòa là những ví dụ điển hình.


Công an mạng thì rất tài trong việc khám phá, ngăn chận và tấn công triệt hạ các trang web “đen”. Hầu hết các trang mạng đưa “tin lề trái” đều không dưới một lần là nạn nhân của đám công an này.


Còn nhiều nữa, nào là công an cửa khẩu, công an văn hóa, công an biên phòng,... đủ các loại công an rất giỏi nghề trấn áp, hạch sách dân lành. Lực lượng công an giao thông cũng được xem là một đám cướp mãi lộ không hơn không kém, trong khi đám công an lo việc đăng ký đăng bộ xe các loại thì phủ phê với hàng núi tiền và còn cấu kết với đám trộm cướp để phi tang hàng ăn cắp, cho nên người dân đã nhại cái điệp khúc nửa mùa của Hồ Chí Minh thành:


Xăng có thể cạn, lốp có thể mòn.


Song số máy số sườn không thể thay đổi.


Trước đây, tù nhân trong các trại tù cải tạo thuộc nằm lòng những điều răn của CAND vì chúng được treo nhan nhãn trên tường tại “phòng sinh hoạt” của các trại cải tạo này. Một trong những điều răn của CAND “đáng nể” nhất là:


Ngày gác cho dân chơi, đêm gác cho dân nghỉ


Lấy hạnh phúc của nhân dân làm hạnh phúc của mình


đã được một số tù cải tạo ứng khẩu sửa lời rất “chuẩn” là:


Ngày gác cho dân chơi, đêm gác cho dân nghỉ


Lấy HẾT hạnh phúc của nhân dân làm hạnh phúc của mình


Quả đúng là các anh CAND rất tài giỏi trong việc “gom” hết hạnh phúc của nhân dân về làm hạnh phúc của mình. Cho nên người dân miền Nam mới gán cho các hung thần CAND là “bò vàng”


Nói đâu chi ở ngoài biển Đông xa xôi, công nhân Trung Quốc làm việc tại một số công trình trên đất Việt Nam mà các anh đâu có dám trừng trị, trong khi thanh niên Việt Nam xuống đường biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn hải đảo lãnh thổ Việt Nam thì các anh vâng lệnh Đảng thẳng tay đàn áp không thương tiếc. Các anh son sắt, “chỉ biết còn Đảng còn mình” như thế cũng phải thôi, bởi vì Đảng tiêu thì các anh cũng không còn chỗ dựa dẫm để “Lấy HẾT hạnh phúc của nhân dân” nữa. Tuy miệng luôn hô hào “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” hoặc là “vì Đảng quên thân, vì dân phục vụ”, nhưng thật ra các anh đã “vì Đảng quên dân, vì thân phục vụ”. Có như vậy thì lực lượng CAND mới luôn xứng đáng làm đàn chó trung thành với chủ “trong mọi tình huống”, sủa vang điệp khúc trung thành “Chỉ biết còn Đảng còn mình” trước khi được chủ ban cho miếng xương.


Nói đến công lao “trời bể” của ĐCSVN thì lúc nào Bác Hồ cũng có phần, lúc nào cũng phải “Bác và Đảng” đi đôi với nhau cả. Cho nên mới nói lực lượng CAND đã “vì Đảng quên dân, vì thân phục vụ”, thì cũng “vì Bác quên dân, vì thân phục vụ”.


Hôm nay nhân ngày sinh của Bác, lực lượng CAND chắc hẳn phải nhớ ơn Bác nhiều lắm vì nhờ 6 điều răn của bác mà anh nào cũng mập béo, giàu sang cả.


Ngày 19/05/2010


Lê Minh


Biển Ðông

Su that ve Ho chi Minh

SỰ THẬT về HỒ CHÍ MINH,
KHÔNG BIẾT hay KHÔNG DÁM NÓI



Trở lại Trang Quan điểm thời sự

Buổi chiều Thứ Bẩy vừa qua, tôi không đi dự ra mắt DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” của Lm Nguyễn Hữu Lễ vì bận việc quá. Nhưng rồi tôi cũng phải xoay xở cho bằng được về để coi cho biết. Không phải chỉ để coi qua như coi một phim chuyện, hay một DVD ca nhạc, mà cố ý coi để hiểu biết sự thật về HCM ra làm sao, tên già dịch này ghê gớm như thế nào mà thấy người ta quảng cáo quá chừng chừng.


Xem hết cuốn DVD, tôi thực sự cảm thấy buồn, chán nản, và thất vọng nữa. Những chuyện mà nhà làm phim, Lm Nguyễn Hữu Lễ, gọi là sự thật về Hồ Chí Minh và về đảng VGCS, theo tôi nghĩ, đó mới chỉ là những thứ rong rêu bám vào chung quanh sự thật chứ không phải là sự thật. Cái sự thật trần trụồng và chính xác nhất thì vẫn còn nằm kín bên trong cái lớp vỏ bùn đất rong rêu dầy đặc kia. Hồ Chí Minh giết người: đúng. Hồ Chí Minh chơi chạy: đúng. Hồ Chí Minh bán đồng chí: đúng. Hồ Chí Minh ăn cắp thơ văn: đúng. Hồ Chí Minh lưu manh bịp bợm: đúng. Vân vân và vân vân. Tất cả tội ác của Hồ được phơi bầy trong cuốn DVD đều thật cả, không có cái gì là không thật. Nhưng sự thật chính xác nhất là cái gì thì người ta lại không tìm ra, hay không muốn khui ra thì không biết. Tôi buồn, chán nản, và thất vọng là vì vậy. Tôi tin rằng người dân không hiểu biết nhiều về HCM, và nhất là bọn cán bộ đảng viên gà mờ nếu xem dĩa DVD này, sẽ thở phào nhẹ nhõm: Tưởng gì, té ra cũng vậy thôi. “Bác Hồ” có những sai phạm cá nhân. Chuyện đó thường tình mà. “Bác” cũng là người với những bất toàn của một con người. Nhưng dù sao “Bác” cũng vẫn là một người yêu nước. “Bác” đã có công thống nhất Tổ Quốc và dành lại độc lập cho Dân Tộc….


Thế là huề cả làng. Đi đoong cái công lao và tiền bạc của cha Lễ.


Sự Thật Chính Mi


Tôi phải đi tìm định nghĩa của sự thật trước rồi mới xác định nó được. Sự thật về một con người là con người đó với tất cả bản tính trời sinh (attribute) của nó, hay gọi là bản chất, nghĩa là những thuộc tính không thay đổi của một con người. Bản chất xấu đưa con người đi đến làm điều ác. Tội ác cũng có từng loại và mức độ khác nhau. Chẳng hạn, giết một người gây đau khổ cho một gia đình. Nhưng giết nhiều người làm thương tổn đến một cộng đồng hay cả một dân tộc. Hồ Chí Minh phạm đủ mọi thứ tội ác xấu xa, nhưng cái bản chất xấu xa nhất trong con ngưòi của hắn là làm tay sai cho ngoại bang, và từ đó đi đến chỗ bán đứng Tổ Quốc cho ngoại bang. Đó mới chính là sự thật chính xác nhất về HCM. Nhưng rất tiếc toàn bộ đĩa DVD của Lm Nguyễn Hữu Lễ đã không xác định được điều này.


HCM có làm tay sai cho ngoại bang không, có bán nước không, chúng tôi sẽ chứng minh dưới đây bằng những văn kiện chính thức của đảng CSVN và bằng sách vở báo chí, hoàn toàn không vì thù ghét cá nhân mà kết tội hồ đồ.


- Tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) của Nguyễn Ái Quốc năm 1931 viết: Tổ quốc không nhất thiết phải bao gồm những người cùng một màu da hoặc cùng một ngôn ngữ. Tổ quốc là sức mạnh chính trị của giai cấp. Vô sản Đông Dương không có tổ quốc.


Như thế HCM tự xác nhận mình là người vô tổ quốc. Một người không có tổ quốc mà bảo rằng hắn tranh đấu cho độc lập của dân tộc là nói láo, hoàn toàn láo.


- Sau đây là một đoạn trích trong lá thư xin việc của HCM viết ngày 6-6-1938, sau gần 7 năm không được Quốc Tế Cộng Sản giao công tác (HCM Toàn Tập- Tập 3 trang 90): Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng.


Tôi sẽ rất biết ơn đồng chí, thưa đồng chí thân mến, cho phép tôi được hội kiến. Tôi tin rằng như vậy sẽ tốt hơn. Đã từ lâu rồi đồng chí không gặp tôi.


Một người đi xin việc với một chính quyền ngoại bang thì rõ ràng là công bộc của ngoại bang chứ còn là gì nữa. Nói khó nghe một tí là đầy tớ hay là tay sai của ngoại bang thì cũng thế thôi.


<!--[if !supportLineBreakNewLine]-->


<!--[endif]-->


- Tờ báo cáo dưới đây (trích trong HCM Toàn tập- Tập 2) HCM gởi cho ban Phương Đông, Quốc Tế Cộng Sản yêu cầu gởi tiền cho hắn hoạt động để thực hiện các công tác bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á. Hồ đã được điện Cẩm Linh trả lương để thực hiện ý đồ xâm lược VN của Liên Xô:


BÁO CÁO GỬI BAN PHƯƠNG ĐÔNG QUỐC TẾ CỘNG SẢN (6-1927)


1) Từ tháng 11-1924, tôi được Ban phương Đông và Đảng Cộng sản Pháp phái đến Quảng Châu để làm việc cho Đông Dương.


Tôi tiếp tục đi Mátxcơva để trình bày yêu cầu của tôi.


4) Yêu cầu của tôi : Ngay bây giờ tôi không thể lập một dự trù ngân sách chi tiết cho công tác của tôi ở Đông Dương (đi qua Xiêm). Vì vậy, tôi chỉ có thể lập dự trù theo cách áng chừng với những con số phù hợp với hoàn cảnh. Biết sự khó khăn về liên lạc từ Đông Dương đi Mátxcơva, và định thời gian cư trú ở thuộc địa này khoảng chừng 2 năm, tôi trình bày với các đồng chí một yêu cầu về ngân sách tính theo Mỹ kim như sau:


Lương tháng 150 đôla trong 2 năm


(cho tôi và những người giúp việc) 3.600 $


Quỹ để công tác trong 2 năm


(mỗi tháng 200 đôla) 4.800 $


Tiền chi bất thường 1.100 $


Tổng cộng 9.500 $


Tất nhiên, ở đây tiền lương chỉ là tượng trưng vì ngoài phần trợ giúp tối cần thiết cho chúng tôi, phần còn lại sẽ chuyển sang quỹ công tác. Và nếu các đồng chí vui lòng chấp thuận thì ngân sách này chỉ được thực hiện từ ngày tôi đến Băng Cốc.


Trong khi chờ đợi quyết định của các đồng chí, xin các đồng chí vui lòng: 1) đưa tôi vào bệnh viện, 2) khi tôi ra bệnh viện cho phép tôi được học vài kinh nghiệm cần thiết cho công tác của tôi 3) và cho tôi lên đường càng sớm càng tốt.


Gửi các đồng chí lời chào cộng sản.


<!--[if !supportLineBreakNewLine]-->


<!--[endif]-->


Làm việc do lòng tốt muốn giúp đỡ người khác thì tốt đấy. Nhưng làm việc được trả lương thì lại khác. Đây mới là bằng chứng xác thực nhất HCM là tay sai của Liên Sô.


- Dưới đây nữa là bức thư đề ngày 31-10-1952 của HCM viết cho Stalin để xin chỉ thị về đề án Cải Cách Ruộng Đất phác họa cho Việt Nam:


Đồng chí Stalin kính mến !


Tôi gửi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam. Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu Shaoshi và Van Szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này.


Kính gởi tới đồng chí lời chào cộng sản.


Chỉ một phần nhỏ trích dẫn trên trong kho tài liệu về HCM cho thấy Hồ là một tên vô tổ quốc (đúng hơn tổ quốc của hắn là Đế Quốc CS Nga), tự nguyện làm đầy tớ cho Liên Sô, lãnh lương của Liên Sô, và nhận chỉ thị của điện Cẩm Linh thi hành các chánh sách của đế quốc Liên Sô về Việt Nam. Như thế tưởng đã đủ để đi đến kết luận rằng HCM là tên Việt gian tay sai của của đế quốc đỏ Liên Sô. Từ là một tên tay sai ngoại bang cai trị đất nước ta, HCM bán đất nước ta cho ngoại bang là chuyện không có gì là lạ. Chúng tôi xin nêu ít nhất 2 bằng chứng cụ thể trên giấy trắng mực đen sau đây:


- Thứ nhất, hồi tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm dưới quyền của HCM nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng: theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc.


Saigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974


Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)


- Thứ hai, ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm cả Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa. Mười ngày sau đó tức là ngày 14-9-1958, Phạm Văn Đồng, thủ tướng dưới quyền HCM, gởi một công hàm ngoại giao cho Chu Ân Lai ủng hộ lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc nguyên văn như sau:


Thưa Đồng chí Tổng lý,


Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:


Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.


Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.


Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.


Chỉ với những văn kiện và trích dẫn trên tưởng đã đủ để đi đến kết luận rằng HCM chính là một tên đại Việt gian tay sai bán nước. Cái huyền thoại Hồ là người yêu nước, có công thống nhất đất nước, đem lại độc lập cho Tổ Quốc chỉ là một huyền thoại ảo, là nói láo, đại láo khoét. Ngược lại Hồ là một tên tội đồ của Dân Tộc.


Không Biết hay Không Dám Nói


Những nhân vật xuất hiện trên đĩa DVD để phanh phui sự thật về HCM thì nhiều lắm. Toàn là những tai to mặt lớn cả, bằng cấp bề bề, địa vị ngất ngưởng. Ngoài hai nhà làm phim là Lm Nguyễn Hữu Lễ và ông Trần Quốc Bảo, chúng tôi điểm danh một số người có tên tuổi sau đây, ta, tầu, tây đủ cả, và ghi nhận đại khái những nhận định của họ về HCM như sau:


- Ông Minh Võ: HCM, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đều không hiểu chủ nghĩa cộng sản đến nơi đến chốn.


Nhà biên khảo Minh Võ cho rằng Hồ và đám đệ tử Chinh, Đồng, Giáp v.v. không hiểu chủ nghĩa CS đến nơi đến chốn. Nói như thế có nghĩa là chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa cũng tốt đẹp, hay ít ra không đến nỗi tệ lắm. Theo ông Minh Võ thì cứ hiểu chủ nghĩa CS cho thấu đáo và tường tận đi đã, rồi mới đem áp dụng thì đã chẳng có chuyện gì. Muôn sự chỉ vì Hồ Chí Minh và bọn đệ tử đã không hiểu chủ nghĩa CS, chứ nếu thấu hiểu đàng hoàng đến nơi đến chốn thì đất nước đã chẳng đến nỗi tanh banh tenh béc như thế này. Đó là một sự tiếc rẻ của ông Minh Võ. Ông chỉ chê bọn đầu sỏ CS ngu dốt, thật ra chúng chẳng có tội gì.


- Bùi Tín: Hồ bị chủ nghĩa Marx mê hoặc. (Bùi Tín còn lên tiếng đòi quyền lợi cho Nguyễn Tất Trung, đứa con rơi vô thừ nhận của Hồ)


- Jean Francois Revel: Mục tiêu đấu tranh của HCM không phải là độc lập của VN mà là sát nhập VN vào Quốc Tế CS.


Tuy là một người Pháp, nhưng triết gia Revel có một cái nhìn tuy chưa phải là sự thật, nhưng khá gần với sự thật. Một người Pháp nói được như thế cũng là tốt lắm rồi.


- Olivier Todd: Hồ là tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa CS.


- Jean Sainteny: Hồ hoàn toàn gắn bó với chủa Nghĩa CS.


- Bernard Fall: Hồ trung thành vô điều kiện với Stalin.


- Trương Vĩnh Kính: Hồ đánh phá và lũng đoạn các tổ chức Quốc gia, thủ tiêu các nhà yêu nước.


- Vũ Ngự Chiêu: Hồ là một nhà độc tài có nhiều tham vọng.


- Nhà báo Balan Robert: HCM là một tay giệt chủng, có tội với dân tộc mình.


Đây là lời kết tội HCM khá nặng nề của một người ngoại quốc mà chúng ta rất ít gặp, nhưng còn xa với sự thật mà chính nó là.


- Ông Bùi Diễm: Tư tưởng Hồ không lấy gì làm xuất sắc lắm, và đạo đức của Hồ không lấy gì tốt đẹp cho lắm.


Nói như ông cựu đại sứ Bùi Diễm thì ta phải hiểu là HCM cũng có tư tưởng chứ không phải không có. Chỉ có điều là tư tưởng của Hồ không được xuất sắc lắm. Về đạo đức cũng vậy, Hồ có đạo đức, chỉ là không được tốt đẹp lắm thôi. Theo ông Bùi Diễm thì HCM cũng giống như một thí sinh đi thi, đậu thì có đậu đấy (hạng bình thứ) nhưng chỉ không đậu cao thôi (hạng ưu). Ngài cựu đại sứ VNCH người ta đồn là rất thân với Xịa nói thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Riêng người viết thì nghĩ rằng ông Bùi Diễm không thể nào cạn tàu ráo máng với cộng sản được, vì “người ta” đâu có thể để cho ông làm thế.


- Ông Nguyễn Ngọc Bích: HCM có nhiều ngày sanh khác nhau chứng tỏ một con người thiếu thành thật.


Ông giáo sư bể dâu Nguyễn Ngọc Bích tố Hồ Chí Minh ra trò lắm, nhưng rất tiếc ông đã không đánh lưỡi 7 lần trước khi nói (ngạn ngữ Pháp: tourner la langue 7 fois avant de parler), nên ông bị hố và trở thành mình tự chửi mình. Ông Bích tố cáo HCM có nhiều ngày sanh khác nhau chứng tỏ một con người thiếu thành thật. Thế nhưng Nguyễn Chí Thiện cũng có cả lô ngày và năm sanh khác nhau thì ông Bích lại coi Thiện như anh em ruột thịt. Chẳng bao giờ ông Bích thắc mắc về sự thiếu thành thật của Nguyễn Chí Thiện cả.


Nói tóm lại, toàn bộ đĩa DVD của cha Lễ, người ta chỉ nghe kể ra các tội lỗi, các thói xấu của HCM mà không thấy một ai nêu rõ đựợc bản chất tay sai bán nước của hắn. Đấy là tôi không đề cập đến những phát biểu cố ý làm nhẹ đi các tội ác của đảng CS vì e bài viết sẽ dài quá mà chỉ chú tâm vào vấn đề chính là cái huyền thoại HCM. Vậy huyền thoại HCM là gì? Thưa là một người yêu nước, có công thống nhất đất nước, đem lại độc lập tự chủ cho dân tộc. Với công lao to lớn này, Hồ xứng đáng được gọi là quốc phụ, là cha già của dân tộc VN. Muốn đánh đổ cái huyền thoại này, đĩa DVD phải chứng minh Hồ chỉ là một tên tay sai của Liên Sô. Hồ phát động chiến tranh, giết hại đồng bào của mình để mở rộng đế quốc đỏ Liên Sô chứ không phải vì độc lập của Tổ Quốc. HCM đã từng tuyên bố: Theo chỉ chị của Quốc Tế CS, tôi (HCM) đã hoàn thành sứ mạng Bolchevick hóa Đông Dương. Và trong diễn văn khai mạc Ðại Hội 3 đảng CSVN năm 1960, Hồ phát biểu: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của lực lượng hòa bình xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một thành viên trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại. Chúng ta có nhiệm vụ giữ vững vị trí tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Ðông Nam Á và trên thế giới. Sự thể này đã được chính Khrushchev, Tổng Bí Thư đảng CS Liên Sô xác nhận và viết trong kết luận của chương về Hồ Chí Minh và Chiến tranh Việt Nam như sau: Cuộc chiến này (chiến tranh VN) không chỉ vì tương lai của người dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đang đổ máu và xả thân cho phong trào Cộng sản thế giới. (chứ không phải cho dân tộc VN, lời chú của người viết).


Công trình của Lm Nguyễn Hữu Lễ là nhằm đánh đổ huyền thoại HCM. Những luận chứng rõ ràng và đanh thép như trên để làm việc này thì lại không thấy một ai trong nhóm tham dự vào việc đi tìm sự thật về HCM nêu ra. Quí vị không biết hoặc thậm chí không muốn biết là, trên bình diện chính trị, chỉ có tội bán nước của HCM mới đánh đổ được cái huyền thoại yêu nước của hắn thôi. chỉ nhắc lại những điều “khổ lắm biết rồi nói mãi” trên các sách báo, chẳng hạn như HCM giết người, HCM gạt gẫm đàn bà, có vợ bỏ vợ, có con bỏ con, HCM ăn cắp thơ của người khác, HCM bán đứng bạn bè cho Tây, thủ tiêu đồng chí v.v. chẳng ăn thua gì, không giết nổi cái huyền thoại về hắn đâu. Những tài liệu HCM làm tay sai cho Liên Sô, cho Tầu cộng, bán nước ra sao có thể tìm thấy ở bất cứ văn khố hay thư viện nào trên khắp thế giới. Thế mà trong suốt đĩa DVD, chúng ta không thấy một ai trưng dẫn. Quí vị này toàn là những người có học thức cao, VN và ngoại quốc. Do đó câu hỏi cần đặt ra là họ có biết hay không biết, có đọc hay không đọc các tài liệu quan trọng về HCM. Chúng tôi không tin họ không biết và không đọc, bởi vì họ là những nhà viết sử, những nhà báo chuyên về các vấn đề của VN. Tại sao họ biết mà không dám nói thì đây là một điều lạ, một câu hỏi quan trọng, rất quan trọng cần phải đặt ra cho mọi người.


Vì Tôi Là Linh Mục


Trong bất cứ một phiên tòa nào, kể cả tòa án nhân dân của CS, cũng đều gồm có đủ ba thành phần gồm chánh án, bị cáo, và biện lý (đại diện ngành công tố). Dĩ nhiên luật sư là người đứng về phía bị cáo. Bị cáo có bị kết tội hay không, tội nặng hay tội nhẹ, tùy thuộc không ít vào thái độ của biện lý. Muốn tội nặng, biện lý ghép nghi can vào những trường hợp nặng nhất, đưa ra những bằng chứng khó chối cãi nhất. Nhưng nếu muốn cho tội nhẹ đi, biện lý chỉ cần ghép vào trường hợp bất cẩn, không tự chủ được, hoặc vô tình v.v. với những chứng cớ vu vơ thiếu chính xác. Vai trò của luật sư chỉ thực sự vất vả nếu biện lý cương quyết bắt tội. Còn nếu như biện lý muốn nhẹ tay thì luật sư coi như cứ việc ù ơ dí dầu cũng có tiền bỏ túi.


Trong vụ xử Chúa Giêsu, Tổng Trấn Pilate đứng vào thành phần chánh án. Ông biết Chúa là người công chính, không phải là một chính khách có tham vọng, và là người vô tội. Ông rất muốn tha Chúa, nhưng phe biện lý ở đây là các tư tế và kỳ mục trong đạo Do Thái, họ nhất quyết gán cho Chúa tội chính trị là Ngài muốn xưng vương Do Thái, ngụ ý lớn hơn nữa là chống lại Hoàng Đế Caeza của La Mã. Đây là một tội không thể tránh được cái chết nếu đúng. Pilate hỏi đi hỏi lại Chúa: Ông có phải là vua Do Thái không. Lần thứ hai Chúa chỉ trả lời: Đấy là ngài nói. Tổng Trấn chỉ cần Chúa trả lời “NO” như ông gợi ý là ông ta có lý do để trả tự do cho Chúa. Nhưng một đàng Chúa Giêsu đã không trả lời đúng như Pilate gợi ý, một đàng phe tố cáo (biện lý) nhất định đổ cái tội chết lên đầu Ngài, nên Tổng Trấn Pilate đành chịu thúc thủ. Trong trường hợp này ta thấy rõ sự lợi hại của vai trò biện lý trong phiên tòa.


Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy là muốn chứng minh rằng đang có một âm mưu rửa tội cho Hồ Chí Minh mà DVD là một lợi thế. Cứ cho việc đi tìm “Sự thật về HCM” là một phiên tòa cho dễ hiểu. Cũng cần lưu ý, đây là một phiên tòa lương tâm xét xử một vụ án chính trị chứ không phải thuần túy hình sự mặc dù bị cáo (HCM) đã phạm rất nhiều tội ác mà tội nào cũng đều đáng chém đầu cả. Trong phiên tòa này, ngồi ghế chánh án để xét xử là 80 triệu đồng bào VN. Đại diện công tố viện là những người được phỏng vấn. Bị cáo là cái huyền thoại HCM. Muốn trừ đi cái huyền thoại này, hay nói khác đi là kết án tử hình nó, thì nhất định phải chứng minh được rằng HCM là tên Việt gian tay sai bán nước. Trọng trách này nằm trong tay biện lý tức những người được cha Lễ mời phỏng vấn. Những tội ác khác Hồ đã phạm như giết vợ, thủ tiêu đồng chí v.v. chỉ có thể cùng lắm giết hắn về thể xác (physically) chứ không thể trừ khử đi cái huyền thoại về hắn được. Cứ xem, Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, giết người vô số kể, nhưng người Trung Hoa bây giờ vẫn kể ông ta là người đã có công đầu tiên làm nên một nước Tầu thống nhất như ngày nay. Cái bản chất tay sai với tinh thần ái quốc không thể hòa lẫn được trong một con người. Thiếu gì bọn lãnh tụ cộng sản trên thế giới, họ cũng tàn ác, cũng sa đọa, nhưng họ không làm tay sai cho Liên Sô. Tito chẳng hạn, ông ta không theo mà còn chống Liên Sô nữa là đàng khác. Hay như Mao Trạch Đông, ông không làm đầy tớ mà còn kình địch với Liên Sô. Một chứng minh cụ thể là trong Thế Chiến II, để chống lại Nhật, Liên Sô giúp Tưởng Giới Thạch chứ đâu có giúp Mao Trạch Đông. Chỉ có HCM theo và làm tôi tớ cho Liên Sô tận tình. Khi Liên Sô đổ, Hồ lại quay sang thờ Tầu cộng. Đó rõ ràng thể hiện bản chất làm tôi tớ cho ngoại bang của HCM.


Cái bản chất này của Hồ đã bị bỏ quên trong việc cha Lễ đi tìm sự thật về HCM. Như trên tôi đã khẳng định, những người được được cha Lễ trao phó trách nhiệm đi tìm sự thật, họ biết sự thật là cái gì và ở đâu, nhưng họ không nói. Với tư cách là người giữ vai trò biện lý trong phiên tòa xử huyền thoại HCM, họ không dám nói. Cần nhác lại vụ xử Chúa Giêsu. Mặc dù Chúa vô tội, nhưng đóng vai biện lý là các tư tế và kỳ mục trong dân cố tình gán ghép Chúa vào tội chết nên Pilate muốn cứu Chúa cũng không cứu được. Trong vụ xét xử huyền thoại HCM, tội chứng đã hiển nhiên: Hồ là Việt gian tay sai bán nước. Vai biện lý tức những người được phỏng vấn lại đi tìm những tội chứng vớ vẩn không đâu. Rõ ràng họ muốn cứu nó chứ không muốn tử hình cái huyền thoại này. Do đó toàn dân VN trong vai chánh thẩm muốn trừ khử tên gian ác này cũng khó làm nổi. Muốn biết nguyên nhân tại sao những thành phần trong vai biện lý không muốn xử tử hình huyền thoại HCM thì cần phải tìm hiểu họ là ai, thuộc thành phần nào.


Để cho dễ nhận diện, ta có thể phân liệt những người này ra làm ba thành phần như sau: người ngoại quốc, người tỵ nạn, và đám phản tỉnh cuội.


1. Thành phần ngoại quốc - Họ là những nhà trí thức lại có tiếng tăm. Chắc chắn là họ muốn đóng khung trong khuôn khổ nghiên cứu để khỏi bị mang tiếng thiếu vô tư. Cũng có thể họ nghiên cứu không được thấu đáo. Chúng ta cũng biết những nhà nghiên cứu họ chỉ căn cứ trên sách vở tài liệu, mấy khi họ lăn lộn vào cuộc sống thực mà tìm tòi. Cũng có thể họ có những quan điểm và xu hướng chính trị riêng tư chúng ta không biết. Do đó chúng ta không thể phiền trách họ được.


2. Thành phần tỵ nạn - Họ cũng có phần nào giống như những người ngoại quốc vừa nói trên. Họ muốn giữ bộ mặt trí thức của họ là những nhà nghiên cứu để không bị mang tiếng là chống cộng cực đoan hay quá khích. Thái độ đó khiến họ trở thành những kẻ luôn luôn đứng bên lề lịch sử để hưởng lợi. Có thể có những lý do thầm kín khác mà họ không thể tỏ ra bên ngoài. Điểm cần lưu ý là trong thành phần tỵ nạn này có rất nhiều người là đảng viên của Việt Tân. VT đã từng tuyên bố công khai rằng HCM là người yêu nước và có công với Tổ Quốc. VT tuyên bố như thế, bây giờ chúng ta đòi đảng viên của họ nói ngược lại Hồ là tay sai bán nước, chuyện đâu có dễ dàng. Ông Nguyễn Ngọc Bích, một thành viên VT cốt cán, tố khổ Hồ là người thiếu thành thật đã là quá sức ông ta rồi, giới hạn và sự cho phép đối với ông ta chỉ có đến thế thôi.


3. Thành phần phản tỉnh cuội - Thành phần này chiếm đa số trong đám người cha Lễ cậy nhờ đi tìm sự thật về HCM. Đây là thành phần đáng nghi ngờ thứ hai sau VT. Dương Thu Hương mới viết sách thổi HCM lên đến tận tầng mây xanh. Như thế thì bà Hương nói sự thật về HCM ra sao, chúng ta không cần nghe cũng biết được. Hay như Bùi Tín, Bùi Bằng Đoàn bố Bùi Tín là cận thần của HCM. Nếu Bùi Tín kết tội HCM là Việt gian bán nước, thì ông ta phải nói sao về ông bố mình. Không lý ông vẫn gân cổ lên cãi “nhưng bố tôi vẫn là người yêu nước”. Ai nghe được. Vũ Thư Hiên cũng thế nữa. Hiên ngày còn bé được HCM cho ngủ chung giường. Bố của Hiên là Vũ Đình Huỳnh là tà loọc rất thân cận với HCM. Đòi Vũ Thư Hiên kết tội HCM là Việt gian bán nước có khác gì buộc Hiên phải tố cáo cha mình là tòng phạm bán nước. Cho nên khi cả cái đám phản tỉnh cuội này đi tìm sự thật về HCM thì chúng ta có thể biết sự thật là cái gì rồi. Khỏi cần phải thắc mắc chi cho mệt. Cha Lễ mời đám người này cộng tác với mục đích gì? Chúng ta nên hỏi cha Lễ, sự thật mà ngài muốn tìm là sự thật gì, nó ở bên nào của dẫy núi Pyrénées?


Mọi người đã xem và đã thấy, DVD “Sự thật về HCM” do Lm Nguyễn Hữu Lễ khổ công thực hiện đã không đáp ứng được cái mà mọi người mong đợi, tức là trừ khử đi được cái huyền thoại về HCM. Sự thất bại này như tôi đã trình bầy trên, nó nằm trong vấn đề nhân sự, những người thực hiện DVD. Vấn đề là cha Lễ vô tình hay chủ tâm lựa chọn những người cộng tác. Nếu chỉ là vô tình thì chắc chắn trăm phần trăm là cha Lễ đã chưa bao giờ hát bài “Vì tôi là linh mục”. Còn nếu đây là chủ ý của cha Lễ thì rõ ràng ngài đã có mục đích riêng của ngài. Cha Lễ nói vậy nhưng không phải vậy. Ngài nói muốn xóa đi cái huyền thoại HCM, nhưng không phải vậy đâu, ngài đang remodel nó đấy. Ai giúp sáng kiến cho cha Lễ làm DVD? Ai cố vấn cho cha Lễ về nội dung? Ai giới thiệu với cha Lễ những người được phỏng vấn. Trả lời một loạt các câu hỏi như thế chúng ta có thể tìm ra được sự thật của vấn đề. Vấn đề này là đĩa DVD “Sự thật về HCM” đã không xóa bỏ được huyền thoại về HCM. Trái lại nó là một kế hoạch hoạch rất tinh vi và thâm độc, kín đáo và tài tình trong âm mưu duy trì và củng cố cái ngôi thần tượng HCM trong lòng người dân Việt và mãi mãi con cháu sau này.


Kết Luận


Câu kết luận của tôi cũng là câu mở đầu bài viết của tôi. Vắn tắt thôi. Xem hết cuốn DVD, tôi thực sự cảm thấy buồn, chán nản, và thất vọng. Hy vọng rằng cha Nguyễn Hữu Lễ tìm ra được chính sự thật về HCM và nhìn ra sự thất bại của mình và ngài sẽ có cách xử lý vấn đề. Những tội ác giết người, cướp của, hiếp dâm, tham ô, ăn cắp v.v. của HCM và đảng VGCS nhân dân VN có thể tha thứ, nhưng tội làm Việt gian bán nước của chúng thì nhất định không thể tha thứ được, không tòa án nào miễn tố, và lịch sử sẽ truyền lại cho muôn đời con cháu mai sau ghi nhớ. Hiểu được chân lý đó đã rồi hãy làm chuyện đánh đổ huyền thoại HCM.


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Trở lại Trang Quan điểm thời sự

Biển Ðông

Friday 21 May 2010

Friday 14 May 2010

Bui Tin va May mu the ky

Bùi Tín
và "Mây mù thế kỷ"
(Hỏi và trả lời với các cựu chiến
binh Việt Nam, Hoa kỳ, Úc, Pháp)


                                                                                                   Lý Tuấn
Trở lại Trang Quan điểm thời sự


Mặc dù với những diễn tả tình cảm anh em trong tập sách "Mây mù thế kỷ", người đọc cũng thấy được thái độ khinh bỉ của Bùi Tín đối với các chính quyền miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chỉ là bù nhìn, tay sai của ngoại bang. Còn cái gọi là "quân đội nhân dân" nhưng thực chất của nó là "phản nhân dân" thề "trung với đảng mafia” thì khỏi nói, Bùi Tín sơn son thếp vàng đến mức tối đa để nó trở thành huyền thoại, cũng là gián tiếp đánh bóng đại tá Bùi Tín, vì đó là nơi đưa hắn vào vai trò của người ăn trên ngồi trốc trong tập đoàn chóp bu cộng sản thống trị, nên cảnh mèo khen mèo dài đuôi không là chuyện bất thường. Hơn nữa, môi trường quảng cáo "huyền thoại Hồ chí Minh" ở hải ngoại đã đi vào ngõ cụt.

Giờ đây, "quân đội nhân dân" hiện nguyên hình chỉ là một bộ phận nòng cốt của guồng máy chuyên chính với nhiệm vụ bảo vệ đảng Việt gian cộng sản, những đặc quyền, đặc lợi, đàn áp nhân dân và bán nước. Vì:

Nếu không có sự hoàn toàn đồng ý của chúng (QĐND), qua vai trò đại diện của tướng bộ trưởng quốc phòng Phạm văn Trà trong bộ chính trị, tập đoàn ngụy quyền Hà-nội sẽ không bao giờ dám dâng thêm đất, nhượng thêm biển cho Tàu cộng!

Nêu lên vai trò lãnh đạo quân sự của tướng lê dương bộ trưởng quốc phòng Phạm văn Trà, người đứng đầu tập đoàn tướng lãnh Hà-nội, để thấy "quân đội phản nhân dân" và bộ chính trị của đảng Việt gian cộng sản, chỉ là bọn người làm tay sai phục vụ ngoại bang, nhất trí phản bội dân tộc – dâng đất, biển cho Tàu đỏ – để được bảo vệ cho việc duy trì quyền lực.

Trước biến cố ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước; là người tự vẽ lên hình ảnh yêu nước cho chính mình trong các bài viết và sách, Bùi Tín phải có trách nhiệm đặt thành vấn đề và dùng cái "đầu lạnh, tỉnh táo" làm cuộc so sánh, phê phán về tinh thần vì đất nước, vì nhân dân giữa ngụy quyền miền Bắc và chính phủ miền Nam; giữa "quân đội phản nhân dân" và QLVNCH trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; giữa "Mặt thật của các tướng lê dương Hà-nội" với "Mặt thật của các tướng Sài-gòn". Cho tới ngày nay, Bùi Tín tiếp tục từ chối thể hiện trách vụ cao cả đó của một người yêu nước (?), của một người cầm bút, không ngoài việc tìm mọi cách bôi tro, trát trấu lên mặt các chính quyền và quân dân miền Nam!

Thảm cảnh của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ "huyền thoại Hồ chí Minh". Nay, "Mây mù thế kỷ" của tên cựu phó tổng biên tập báo Nhân dân, Bùi Tín – tập trung vào việc ca ngợi, sơn phết, vẽ vời để cho ra đời thêm huyền thoại về cái gọi là "quân đội nhân dân" – chắc chắn tiến trình này phải nằm trong kế hoạch lâu dài của đảng Việt gian cộng sản. Xin phép được nói lên một số cảm nghĩ về "tác phẩm" này.

                                                                           *****

Để làm vấn đề sáng tỏ và rộng rãi hơn về cuộc chiến với vài điểm quan trọng xảy ra trong quá khứ hầu tìm cốt lõi của nguyên nhân mà Bùi Tín, lúc thì viết có vẻ thành thật, lúc thì lại lờ mờ phủ nhận những điều đã viết ra đến loạn cào cào. Nội dung "Mây mù thế kỷ" cho thấy Bùi Tín có những hành động giống y như tập đoàn ngụy quyền Hà-nội là: Mạt sát và luôn coi người tị nạn là bọn phản động, nhưng lại kêu gọi quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để hòa giải hòa hợp.

Quan sát hoạt động của Bùi Tín từ khi có mặt ở hải ngoại trong vai trò phản tỉnh, đã cho thấy là hắn giữ trọng trách sỉ nhục các chính quyền miền Nam, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa rồi dùng cách diễn tả vòng vo kêu gọi họ, gia đình, con cháu của họ, tức là nạn nhân của Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản, "hòa giải hòa hợp" nhưng không nói rõ ràng là "hòa giải hòa hợp" với ai; làm thế nào để thực hiện lời kêu gọi đó; ai sẽ là người đứng ra lãnh đạo tiến trình này (phải hiểu ngầm người lãnh đạo là hắn). Nói tóm lại, Bùi Tín nghĩ rằng mọi người ở hải ngoại chỉ là một đám người ngu nên đưa ra những điều không thực tế, không tưởng làm mồi câu gây ra sự bất đồng ý kiến trong tập thể, nghi kị lẫn nhau đưa đến xung đột về tư tưởng có lợi cho ngụy quyền Hà-nội.

Nghiên cứu cẩn thận những công trình "viết – lách" của hắn, người đọc sẽ nhận ra điểm đặc biệt là hắn không muốn tập thể tị nạn cộng sản biết đến những quá trình then chốt của cuộc chiến vì nó đem ánh sáng soi rọi vào gương mặt Việt gian, bán nước của Hồ chí Minh và bè lũ đảng cộng sản. Xin nêu lên vài thiếu sót đó để công luận có thêm dữ kiện cho việc thẩm định nhiệm vụ của Bùi Tín ở hải ngoại, vì hắn dùng ngòi bút tạo ra nhiều trò tình cảm mị dân tuyên truyền vào tập thể tị nạn đúng với những gì mà ngụy quyền Hà-nội đang thực hiện. Thí dụ: Trong "Mây mù thế kỷ", Bùi Tín đưa ra thí dụ lờ mờ như là: Hai tay đánh nhau (huynh đệ tương tàn) nhưng không cho biết tay nào đánh trước. Đây là điểm mà Bùi Tín luôn luôn tránh né đề cập đến trong những bài viết và sách.

Xin trình bày vài điểm chính về cuộc chiến đẫm máu ở miền Nam Việt Nam mà Bùi Tín không bao giờ viết ra:


- Trước hết, xin nhắc lại nhiệm vụ của Hồ chí Minh và đảng cộng sản của hắn từ khi ra đời ngày 03/02/1930, là: Nhuộm đỏ ba quốc gia Đông-dương theo lệnh của đế quốc thực dân đỏ Nga-xô;

- Danh xưng của tổ chức Việt gian là "Đảng cộng sản Đông dương" – đủ nói lên mọi biến cố đầy máu và nước mắt mà nhân dân của cả ba quốc gia Việt–Miên–Lào, đã phải đổ ra để cho chúng hoàn thành trách nhiệm với quan thầy;
- Như vậy, Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản của hắn không hề có mục đích phục vụ cho quyền lợi của dân tộc và đất nước Việt Nam – Tổ quốc của chúng là đế quốc đỏ Nga-xô;
- Đấy là nguồn gốc của cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản – Chiến tranh Đông dương 2 – thực chất của cuộc chiến là chúng dùng xương máu nhân dân Việt Nam vào tiến trình mở rộng thuộc địa cho đế quốc đỏ Nga-xô.

Ngay ở phần nhập đề của tập sách, Bùi Tín viết: "Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đưa đến Hiệp định Giơ-ne-ve (Genève). Đất nước chia làm hai miền. Tổng tuyển cử dự định vào tháng 7.1956 không diễn ra. Chính quyền ở miền Nam do người Pháp dựng lên và yểm trợ, được Hoa kỳ công nhận và tiếp sức theo chiến lược ngăn chận cộng sản của chiến tranh lạnh."


Quay trở lại quá khứ đề cập trong những giòng chữ nêu trên, Bùi Tín lại cố tình phủ nhận những gì mà hắn tự nguyện viết ra trong quyển "Hoa xuyên tuyết". Bùi Tín viết lại lời Lê Duẩn rằng:
"Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo ngay anh em chôn súng. Tôi bảo với anh em để lại lực lượng ở miền Nam không tập kết hết cả đâu nhé." (Hoa xuyên tuyết – Tr. 126).”


Đọc những lời đó, không cần người có học cũng hiểu:


Mưu đồ nhuộm đỏ miền Nam bằng bạo lực quân sự đã được đảng Việt gian cộng sản dự trù, chuẩn bị ngay từ những ngày đầu của cuộc đình chiến, năm 1954.


Mưu đồ này được thông qua trong cuộc họp của Hồ chí Minh và một số tay chân cho ra đời "nghị quyết 15, khóa 2, tháng I-1959". Lợi dụng ít người biết và lưu tâm đến điều này, Bùi Tín đã tự động sửa thành "tháng 1-1960"* để nhập nhằng quy tội chính quyền miền Nam Việt Nam là đầu dây mối nhợ của cuộc chiến qua luật 10/59.

Cùng với ý đồ đó, Bùi Tín lờ đi và không bao giờ nhắc đến cái chủ đích của Hồ chí Minh thay "Mặt trận Liên Việt" bằng "Mặt trận Tổ quốc" (1956), với những điều lệ đặt chính quyền miền Nam Việt Nam thành một tổ chức ngang hàng với các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, và phải nằm trong "Mặt trận tổ quốc", dồn chính quyền miền Nam Việt Nam vào thế không thể chấp nhận tổng tuyển cử.


"Luật 10/59 ra đời tháng 10-1959, sau nghị quyết 15 tháng 1-1959 của Hồ chí Minh và bè lũ – đến 9 tháng."


Sự ra đời của luật 10/59 là một bắt buộc phải thực hiện của chính quyền nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng luật này hoàn toàn nhằm vào mục đích tự vệ và bảo toàn miền Nam Việt Nam, trước viễn tượng không thể tránh được cuộc xâm lược của Hồ và đảng Việt gian cộng sản bằng quân sự qua "nghị quyết 15".


Đó cũng là lý do Bùi Tín tránh nhắc đến cái cốt lõi của cuộc chiến mà chỉ lấp lửng đề cập đến: "Tổng tuyển cử dự định vào tháng 7.1956 không diễn ra", không ngoài ý định đưa tập thể tị nạn vào con đường mơ hồ, lầm lẫn để rồi chấp nhận hoặc đồng tình rằng chiến tranh bắt nguồn từ phần lỗi của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, vì đã không thi hành lịch trình tổng tuyển cử do hiệp định Genève ấn định. Hoặc ít ra, miền Nam Việt Nam – nếu không hoàn toàn chịu trách nhiệm, cũng phải chia xẻ phân nửa trách nhiệm về chiến tranh và tình trạng đất nước đối với lịch sử dân tộc. Như vậy, cả hai phía đều cùng có tội, là huynh đệ tương tàn, tại sao không quên tội của nhau mà hòa giải hòa hợp dưới sự lãnh đạo của ngụy quyền Hà-nội.

Ngoài ra, phải nói đây là chiêu đánh cực độc vào tư tưởng tập thể tị nạn mà nó có tác động khiến mọi người – nếu chấp nhận lý luận của Bùi Tín mà gạt bỏ quá khứ – thì kể như gạch bỏ lịch sử cận đại của miền Nam nói riêng, Việt Nam nói chung, để chỉ còn lại "lịch sử" của đảng Việt gian cộng sản được đội ngũ gia nô bồi bút, văn nô của chúng nhào nặn thành đồ giả và thực hiện từ lâu. Cái ngay trước mắt mà mọi người đã chứng kiến là tên của những đường phố, làng mạc trên toàn lãnh thổ miền Nam bị thay bằng tên của bọn sâu bọ trong tổ chức Việt gian cộng sản đã chết. Tượng đài của những tên lính Lê dương với đôi bàn tay đẫm máu nhân dân Việt Nam mọc lên khắp mọi nơi cùng với tượng của Hồ. Đặc biệt là Sài-gòn giờ đây mang tên của tên gián điệp lãnh lương của "quốc tế 3 cộng sản": Hồ chí Minh. Đồng thời, xin nêu lên một bằng chứng cụ thể được thể hiện trên giấy trắng mực đen trong tiến trình bôi xóa lịch sử dân tộc mà, Trần huy Liệu, nhà sử học của tập đoàn mafia đỏ cộng sản Việt Nam, Viện trưởng Viện Sử học đầu tiên của chúng, đã viết đại khái:


                                    "Lịch sử Việt Nam bắt đầu từ khi đảng ra đời."


Trong tập sách "Mây mù thế kỷ", ngoài nội dung trình bày làm người đọc mơ hồ, nó còn có ý làm cho người đọc có ý nghĩ chiến tranh xảy ra vì các chính quyền miền Nam Việt Nam là "bù nhìn, tay sai" (do Pháp dựng lên và được Mỹ công nhận, ủng hộ - theo Bùi Tín) của ngoại bang. Nói một cách khác, Bùi Tín chạy tội xâm lược miền Nam Việt Nam bằng quân sự của Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản, đổ hết tất cả tội lỗi lên đầu nạn nhân của cuộc chiến. Vậy thì nạn nhân ở Huế bị mổ bụng, chôn sống v.v… năm 1968; trẻ em ở Cai-lậy bị Việt cộng pháo chết; tất cả nạn nhân đã chết, bị què cụt trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam, theo tên phản tỉnh cuội Bùi Tín, đều cũng có tội vì chính phủ của họ là bù nhìn, tay sai của ngoại bang.

Sau tháng 4/1975, Bùi Tín cho biết là đã vào Sài-gòn và sống tại đây liên tiếp 4 năm. Sự nhận xét của tên nhà báo cộng sản này về thể chế miền Nam, dù hời hợt và gượng gạo nhưng cũng cho thấy các chế độ miền Nam là dân chủ tự do, mặc dù phải đối phó chiến tranh với thù trong, địch ngoài do đảng Việt gian cộng sản của hắn chủ trương và phát động. Nhưng rồi hắn lại tự phủ nhận những gì đã viết ra để dùng luận điệu tuyên truyền của đảng Việt gian trong suốt thời chiến và ngay cả ngày nay. Không phải chỉ riêng trong "Mây mù thế kỷ", mà trong tất cả những gì tên phản tỉnh cuội này viết ra, không ngoài mục đích "bôi bẩn, hạ nhục và trút tất cả tội lỗi lên đầu các chính quyền và quân dân miền Nam". Điều này làm nổi bật tất cả những công trình tim óc, trí tuệ của hắn là chỉ tập trung vào công việc bào chữa cho tội ác của những kẻ gây ra chiến tranh ở miền Nam, thẳng tay sát hại nhân dân Việt Nam để hoàn thành nhiệm vụ bành trướng thuộc địa cho thực dân đế quốc đỏ Nga-xô là Hồ chí Minh và bè lũ đảng Việt gian cộng sản.
Một điểm khác quan trọng không kém là ý định của Bùi Tín và cũng là của ngụy quyền Hà-nội: nhằm nhắm vào giới trẻ ở hải ngoại. Cách viết mù mờ không ngọn nguồn của hắn sẽ khiến giới trẻ bâng khuâng không biết đâu là sự thật đưa đến sự xung đột tư tưởng trong gia đình, giữa những thế hệ khác nhau. Hoặc họ đi tìm sách vở để nghiên cứu, tìm hiểu thì, chắc chắn, hầu hết những sách vở đó đều do tả phái quốc tế viết hoặc đồ giả do đảng Việt gian cộng sản nhào nặn và sản xuất (hiện có đầy trong các thư viện ở các quốc gia Tây phương). Thế là họ đi vào cái bẫy của Bùi Tín, có nghĩa là của đảng Việt gian cộng sản. Họ sẽ cảm thấy chán nản không thèm lý đến Việt Nam, xa lánh con đường đấu tranh mà nhân dân Việt Nam kỳ vọng. Hoặc, một là đi theo Bùi Tín tức là chấp nhận ngụy quyền Hà-nội, hoặc nhóm Việt gian cộng sản của phe hắn. Hai là giữ thái độ trung lập không cần biết đến Việt Nam. Một mũi tên bắn hạ hai con chim của đại tá cộng sản Bùi Tín.

Bùi Tín đã lấy tay che cả hai mắt, để lương tâm nhìn về phía sau lưng, để không nhìn thấy các chính quyền nước Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn không có các loại cố vấn như: Vương cố vấn, Triệu cố vấn, Triết cố vấn v.v… như "chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", đã được mô tả sống động trong sách của hắn. Đã tự ý viết ra những sự thật đó, nhưng tại sao Bùi Tín không dùng lương tâm của một người Việt Nam chân chính làm cuộc phân tích trắng, đen về những khác biệt của thế chủ quyền đất nước giữa hai chế độ trước khi xử dụng ngòi bút?
Chính phủ của một quốc gia mà có những cố vấn ngoại quốc loại: Vương cố vấn, Triệu cố vấn, Triết cố vấn cùng dâng biển, nhượng đất cho ngoại bang, xin cho biết là phải gọi cái "chính phủ" đó như thế nào mới đúng nghĩa?* Nó có xứng đáng tồn tại để tiếp tục thống trị đất nước?
Bùi Tín nghĩ sao về tình trạng thịnh vượng, nhân dân với đời sống no ấm, tự do thoải mái ở các quốc gia như: Nhật, Đại Hàn, Đài loan; cả những nước như: Đức, Pháp, Anh sau thế giới đại chiến 2, "được Hoa kỳ công nhận và tiếp sức theo chiến lược ngăn chận cộng sản trong chiến tranh lạnh", có phải do ngoại bang dựng lên và là tay sai, bù nhìn của Hoa kỳ? Có phải vì họ không có loại người như Hồ chí Minh ở Việt Nam ngày trước; tập đoàn đệ tử của hắn hiện ở Hà-nội; Bùi Tín và các đồng chí, đồng đạo ở hải ngoại ngày nay, nên họ có được sự sung túc mà đảng Việt gian cộng sản đang bám vào họ và cả Mỹ như đỉa đói? Chính Bùi Tín cũng cố ý làm cho mọi người nhận ra sự "thân Mỹ" của hắn hơn hẳn "ngụy miền Nam" với cách diễn tả nửa kín, nửa hở trong "Mây mù thế kỷ".

Nhưng có một điểm quan trọng đặc biệt phải nêu ra đây vì Bùi Tín cố tình quên mình là một đại tá của "quân đội (phản) nhân dân"; một nhà báo; một người cho mình là yêu nước; một chứng nhân của cuộc chiến, đã ngồi trên xe tăng tiến vào Sài-gòn chiếm dinh Độc lập ngày 30 tháng 4 năm 1975! Cái kết thúc đẫm máu đó sáng tỏ như ban ngày nhưng cũng xin hỏi đại tá lê-dương, phó tổng biên tập báo Nhân dân: Ai đã gây ra chiến tranh? Ai xâm lược ai? Nhân dân miền Nam Việt Nam hưởng những gì sau khi "được" đảng Việt gian cộng sản của Hồ chí Minh giải phóng?

Dù khéo léo không để lộ ý định dùng "Mây mù thế kỷ" làm chứng từ "huyền thoại hóa" cho cái gọi là "quân đội nhân dân", nhưng với những lời viết tuyên dương, khoe khoang phương pháp điều hành chiến tranh của các cấp lãnh đạo ngụy quyền cộng sản; những kế hoạch xâm nhập từ binh lính đến chiến cụ, quân trang, nhiên liệu, lương thực, y tế vào miền Nam; khả năng điều khiển, điều động các đại đơn vị và cách giải quyết chiến trường của các cấp chỉ huy ngụy quân ngoài mặt trận v.v… Nhưng thực tế của đất nước là bằng chứng không thể lòe thiên hạ và qua mặt ai được, vì người đọc sách vẫn thấy cái "chứng từ" lưu manh đó bởi mắt chưa mờ, trí óc chưa bị bịnh tâm thần xâm nhập.

Tuy nhiên, cái đáng lưu ý hơn là đoạn Bùi Tín có lời nhắc đến "Mặt trận giải phóng miền Nam" (MTGPMN), chỉ với cách trình bày lất phất cho có vẻ như là không quên; nhưng thẳng thừng không coi đó là chiến công tiếp tay đem lại thành công cho cuộc xâm lược của đảng Việt gian cộng sản. Thực ra, khi đọc "Mây mù thế kỷ", người đọc chúng tôi nhận ra ngay những đặc thù khinh rẻ bọn người gồm những thành phần trí thức điển hình gọi: "thành phần thứ 3" và các cái gọi là "chính phủ Cách mạng lâm thời và Mặt trận giải phóng miền Nam" chỉ là bọn "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản". Đồng thời, chúng tôi xem đó là một công nhận bằng giấy trắng mực đen vai trò của những thành phần này tiếp tay cho giặc, trực tiếp cho thấy chúng là nội thù của quân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ nước Việt Nam Cộng Hòa ở thế kỷ qua. Nhưng tiếc thay, những "thành phần đó" hiện sống rải rác ở hải ngoại hoàn toàn im hơi lặng tiếng với những sỉ nhục mà Bùi Tín dành cho họ. Và, ngạc nhiên thay, lại có một vài tên đang tự nguyện làm tà lọt, thành cái đuôi của nhà "thuyết khách" Bùi Tín. Để tìm nguyên nhân của vấn đề, xin đi vào phần "nhìn lại cuộc chiến tranh 2".


"3. NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN TRANH 2" – PHẦN 1”


Một câu hỏi:
“Có phải Hà-nội lợi dụng cuộc tổng tấn công miền Nam Việt Nam vào Tết Mậu Thân 1968 là để tiêu diệt lực lượng của "chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam" vì giữa họ vẫn có sự đố kỵ Nam-Bắc, và để rồi chỉ còn lực lượng của miền Bắc ở miền Nam mà thôi?"


Bùi Tín trả lời:


"Có lẽ một số người trong các bạn đã nghĩ quá xa với suy luận theo cách chủ quan. Tôi cho rằng, lúc bấy giờ bộ phận lãnh đạo đảng cộng sản ở miền Bắc khi mở cuộc tiến công Tết Mậu Thân ở miền Nam đều có sự phối hợp với bộ phận lãnh đạo ở miền Nam của Trung ương Cục. Họ không có ý đồ như bạn hỏi. Bởi vì, chính phủ Các mạng lâm thời và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đều do cơ quan lãnh đạo cộng sản lập ra."

Để qua một bên những chém giết lẫn nhau, tiêu diệt hay không tiêu diệt của chúng - phần viết này chỉ đề cập đến những cá nhân, tổ chức nội thù của quân dân miền Nam Việt Nam từ ngày trước cho đến hiện nay mà Bùi Tín lấy nó làm thành một phần nội dung trong tập sách "Mây mù thế kỷ", và những tiến trình có thể xảy ra trong tương lai.
Như chúng tôi từng nêu ý kiến rằng:


Những thành phần gọi là "thứ 3" nếu không do đảng cộng sản lập ra, những thành phần này cũng tự ý ngả về phía ngụy quyền Hà-nội!


Câu trả lời trích ở phần trên của Bùi Tín là sự công nhận: Ý kiến của chúng tôi là chính xác.
Thế nên, nếu nghiêm chỉnh xét lại mọi lời nói đến hành động của "thành phần thứ 3", sẽ thấy chúng hoàn toàn không mang lợi ích cho nhân dân miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tự vệ vừa qua, mà chỉ thấy sự tự nguyện tiếp tay hoặc thi hành theo chỉ thị của đảng Việt gian cộng sản. Ngày nay cũng không có gì thay đổi, nghĩa là bọn người này không vì nhân dân và đất nước Việt Nam, mà vì quyền lợi tập thể hoặc cá nhân của chúng tức là của ngụy quyền Hà-nội, hoặc của ngoại bang.

Nhưng tại sao Bùi Tín không ngại ngùng cho mọi người biết tường tận về những vai trò và nhiệm vụ của những "thành phần thứ 3" đó?

Mục đích của sự tiết lộ đó không nằm ngoài ý định: Trước là khoe tài lãnh đạo của đảng Việt gian cộng sản và cái gọi là quân đội phản nhân dân. Sau là để mọi người thấy đó là phát súng ân huệ cuối cùng của ngụy quyền Hà-nội ban thưởng cho các thành phần đó mà thôi! Vì những thành phần này không còn lợi ích là bao nhiêu và có thể trở mặt vì bị đá đít, và nhất là gây trở ngại cho việc xây dựng một "thành phần thứ 3 mới" dưới sự chỉ huy của hắn hoặc một "đồng chí" nào đó, để đối phó tập thể tị nạn ở hải ngoại.

Để "phát súng ân huệ" có hiệu quả hơn, Bùi Tín không ngần ngại tăng thêm thuốc bồi để viên đạn thoát nòng súng mạnh hơn: "Cũng cần nói thêm, vị trí của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam là không có thực chất, họ chỉ là cái bình phong, là một tổ chức được đưa ra để lý giải và thuyết phục dư luận thế giới, rằng đây là một phong trào vốn có từ miền Nam. Thực ra, tất cả đều do chỉ đạo từ cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản ở miền Bắc."

Nhìn vào cuộc chiến vừa qua để rút kinh nghiệm, phải nói rằng nếu không có những cá nhân, tổ chức chính trị tay sai, cò mồi phá rối mọi mặt ở miền Nam, Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản không thể nào tạo ra được ngày 30/4/1975. Yếu tố này có tính cách chiến lược của cuộc chiến xâm lược; nó cũng là bài học xương máu mà tập thể tị nạn cần nhận diện để tránh những lỗi lầm ngày trước cho cuộc đấu tranh ngày nay. Bởi vì, gần ba thập niên qua, chúng ta hoàn toàn không thấy một tên Việt cộng nào chính thức ra mặt hoạt động trong cộng đồng; chỉ những nằm vùng, tay sai, cò mồi và các trí thức thập thò như là thành phần thứ ba mới gây xáo trộn giống như ngày trước. Đặc biệt là có thêm vài tổ chức đấu tranh dổm tiếp tay chúng gây nghi ngờ, tạo rối loạn làm mọi người thêm chán nản; và một nhóm mới khoác áo "phản tỉnh, ly khai, đấu tranh dân chủ" chuyên nghiệp, nhưng cũng cuội, đang cố lèo lái tập thể tị nạn đi vào con đường hướng về Ba-đình, Hà-nội.

Chẳng còn gì để bào chữa cho hành động "yêu nước" của bọn người này khi mà chính Bùi Tín phỉ nhổ vào mặt chúng với những lời lẽ tuy ngọt ngào nhưng thật thậm tệ. Âu đó cũng là nghiệp chướng của thân phận đầy tớ, tay sai làm bình phong cho chủ, khi xong việc chủ đá đít để khỏi bố thí cục xương là chuyện bình thường. Cũng từ điểm này, nét chấm phá của bộ mặt lưu manh của đảng Việt gian cộng sản mới hiện ra để xác định chân tướng của chúng.

Nhìn xa hơn chút nữa, ta sẽ thấy mưu định của Bùi Tín là không ngoài việc bênh vực, bào chữa cho việc dẹp cái đám "thành phần thứ 3, chính phủ cách mạng lâm thời và MTGPMN" của đảng cộng sản. Nó nằm trong câu viết như sau: "Tất nhiên, giữa lãnh đạo miền Bắc với lực lượng Mặt trận và chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam được dựng lên ở miền Nam có sự nhất trí, nhưng vai trò của Mặt trận, chính phủ Cách mạng lâm thời luôn ở thế lép vế, phụ thuộc, hình thức, phục tùng, không có thực quyền gì. Chính vì thế đến năm 1975, khi giành được toàn thắng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính phủ Cách mạng lâm thời bị giải thể rất nhanh, gần như không kèn không trống."


Đây là sự khẳng định chấm dứt những thành phần "tay sai" trong cuộc chiến vì mục tiêu nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam đã hoàn tất. Vai trò, nhu cầu đảng Việt gian đòi hỏi và tùy thuộc vào các "đồng chí hờ" trong chiến tranh không còn cần thiết trên lãnh thổ Việt Nam. Khôn hồn, ngậm miệng thì đảng sẽ thưởng cho cục xương thừa như những Lý chánh Trung, Ngô bá Thành, Lữ Phương v.v… Nó cũng có nghĩa là một cảnh cáo các đào kép "tay sai, bù nhìn" ở hải ngoại, rằng: "Các đồng chí (hờ) chớ có vọng động mà thiệt thân". Đừng trở mặt phá đảng bằng cách hợp tác với "bọn ngụy" ở hải ngoại gây thiệt hại cho đảng là cái tội không thể tha thứ được. Hãy yên phận để đảng có thì giờ rảnh tay đánh phá, lũng đoạn cộng đồng của chúng. Vì chúng có tan vỡ, đảng mới nắm cổ chúng được và có thêm nhiều cơ hội để "Mặt trận tổ cuốc" chăm lo và vắt sữa những con bò sữa mập mạp đó.


"Mây mù thế kỷ" là phát súng ân huệ mà Bùi Tín, thay mặt ngụy quyền Hà-nội, ban phát cho các thành phần đó.


Phát súng ân huệ của Bùi Tín đã cung cấp một số bằng chứng cần thiết để lý giải và giải tỏa thắc mắc cho nhiều người về sự biến dạng của những con người, tổ chức của họ mà tất cả chỉ là công cụ làm "bình phong" cho tập đoàn tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu. Mong rằng những tà lọt, những thành phần thứ 3 mới (còn trong tình trạng chập chờn như ma trơi) hãy thận trọng suy nghĩ đến những gì mà Bùi Tín đã viết ra trong "Mây mù thế kỷ". Nếu chưa đọc tập sách này thì hãy đi tìm đọc; khi đọc thì nên dùng cái "đầu lạnh, tỉnh táo" mà đọc và nghiên cứu cẩn thận để đừng vướng vào con đường xưa các đồng chí đàn anh đã đi, để đến nỗi đồng chí Bùi Tín phải đưa lên sách với những miêu tả thấy buồn dăm ba phút.

Tuy nhiên, có một điểm phải công nhận rằng Bùi Tín cũng là người có "tình chung, nghĩa thủy". Có lẽ là vì sống ở hải ngoại đã lâu, bị nhiễm tính phải thể hiện tình người nên thực hiện "tình đồng chí" bằng cách cho nhiểu vài giọt nước mắt của vai trò anh kép mùi xuống xề nghe não ruột, rằng: "Lan, sao em nỡ cắt đứt dây chuông trong khi anh còn đứng (xin ăn) trước cổng hiên chùa", để vuốt ve các thành phần bị đá đít, làm thiên hạ mủi lòng khi đọc lời chia buồn (hay chia vui cũng được) của Bùi Tín với những tổ chức, những cá nhân bù nhìn có tội với dân tộc, như sau:


"Các vị nhân sĩ, trí thức có chân trong chính phủ như luật sư Nguyễn hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh tấn Phát, luật sư Trịnh đình Thảo, bác sĩ Dương quỳnh Hoa cũng cảm thấy chán nản, vì không được trọng dụng nữa. Tất cả những người có vai vế một thời đều ngao ngán, buồn tủi cho thân phận bị khinh bạc của mình."

Nhưng đó là giọt nước mắt cá sấu của người cộng sản dành cho những con người mang thân ra làm khuyển mã cho ngụy quyền Hà-nội kể ra thì cũng xứng đáng. Đó là logic chính trị quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa giải hòa hợp theo phương pháp "định hướng xã hội chủ nghĩa". Đó cũng là sự khinh bỉ đối với các thành phần "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" của Bùi Tín, được thể hiện theo lối dùng chữ nghĩa cho có vẻ văn chương hàn lâm của nhà tuyên truyền với 47 năm kinh nghiệm của đảng Việt gian cộng sản.

Cũng từ giọt nước mắt cá sấu của Bùi Tín, một sự thật cho thấy là những thành phần tay sai, hoặc theo voi hít bã mía, dù bằng cấp đầy mình, chỉ là phường giá áo túi cơm – chỉ muốn được ngụy quyền cộng sản trọng dụng để có vai, có vế trong xã hội của chúng – nên những tiết lộ của Bùi Tín cho mọi người thấy cái hèn của chúng – khi bị đảng liệng xuống cống – thì miệng câm như hến.

Cũng từ giọt nước mắt cá sấu của Bùi Tín, các thành phần hiện là cái đuôi của hắn ta, có nhận ra được những thực tế phũ phàng này? Hay đợi cho đến lúc phó tổng biên tập báo Nhân dân Bùi Tín lên cơn hứng "xuống xề và lên nòng súng cho phát ân huệ thứ 2", lúc đó mới biết thì mặt mình đã vỡ vì không còn được "đảng hay phe (ta) của Bùi Tín” trọng dụng. Tạo thêm cơ hội tốt cho đại tá quân đội phản nhân dân Bùi Tín có dịp múa bút viết "Mây mù thế kỷ 2" cùng với lời than thở hộ rằng: “Tất cả những người có vai vế một thời đều ngao ngán, cảm thấy chán nản". Sầu hơn nữa là "buồn tủi cho thân phận bị khinh bạc của mình". Ôi, cái vai, cái vế (và cả cái ghế) sao tụi mi lại rắc rối, đen thui thủi đến như thế ni!

Các cụ ta thường nói: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng".


"5. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HIỆN TẠI" - PHẦN 2


"Hỏi và trả lời với một số cựu chiến binh quân đội nhân dân Việt Nam và quân lực Việt Nam cộng hòa"


Về những vấn đề hiện tại ở hải ngoại, câu hỏi trích dẫn dưới đây cho thấy chủ đích chia cộng đồng tị nạn cộng sản ra làm hai khối để dễ gây xáo trộn, lũng đoạn, ngăn chận việc cộng đồng tiến tới hợp nhất. Câu hỏi đó như sau:


"Ông nhận xét như thế nào về cộng đồng người Việt ở hải ngoại nói chung và những người quốc gia ở hải ngoại nói riêng?"


Câu hỏi này là sự sắp đặt cấu tạo một khoảng cách giữa "người Việt hải ngoại – những người quốc gia" là hai tập thể hoàn toàn khác nhau về tư tưởng nhưng do người hỏi đặt ra, chứ không do Bùi Tín. Đó là cách tung hứng độc đáo giữa "hỏi – trả lời" của "Mây mù thế kỷ".
Thực chất của cách gọi "cộng đồng người Việt ở hải ngoại" là một sự xóa bỏ "tình trạng và danh xưng của người tị nạn cộng sản", trắng đen lẫn lộn để đồng hóa ý nghĩa với cụm từ "khúc ruột xa ngàn dặm" của anh chàng hoạn lợn Đỗ Mười.

Thực chất của cái gọi là "những người quốc gia" không ngoài cách tránh gọi: chống cộng cực đoan, quá khích; nhưng những ai "được" đặt nằm trong phạm trù "quốc gia" đều là thành phần: chống cộng quá khích, cực đoan. Và, nhóm này chỉ là thiểu số, lẻ tẻ không đáng quan tâm, theo cách diễn giải trong câu trả lời của Bùi Tín, cho phù hợp với chính sách về nguời tị nạn của ngụy quyền Hà-nội.

Thực chất của câu hỏi trên là cách xập-xí xập-ngầu coi như đa số người tị nạn trong cộng đồng tị nạn cộng sản đã thay đổi tư tưởng, lập trường hoặc trốn khỏi Việt Nam vì lý do kinh tế, du học nên chấp nhận "hòa hợp" với ngụy quyền Hà-nội. Các từ "tị nạn cộng sản" được "người hỏi" và me-xừ Bùi Tín dàn cảnh bằng câu hỏi, trả lời với lý luận tình cảm để nhè nhẹ vất vào sọt rác.
Câu hỏi là sự mở đường có tính toán để cho con tàu của Bùi Tín bắt trớn. Dù vậy, nó cũng không thể nào dấu cái đuôi quá dài vì nhìn sâu hơn vào những công trình "viết – lách" của Bùi Tín, người đọc sẽ nhận ra "Mây mù thế kỷ" không khác gì bản thảo của một vở kịch, với những câu hỏi có tính cách cò mồi kiểu Sở Khanh phỏng vấn Tú Bà có lợi cho tập đoàn Việt gian Hà-nội, được các nghệ sĩ diễn viên thời đại "cựu chiến binh quân đội phản nhân dân và QLVNCH (?)" cùng nhà "ly khai Bùi Tín" đồng trình diễn.

Sau màn giáo đầu ca ngợi về sự thành công của người tị nạn làm cho mọi người nở lỗ mũi không còn quan tâm đến những tiết mục khác, con tàu của Bùi Tín bắt đầu chuyển bánh. Mào đầu với bối cảnh bảo thủ, độc đoán, tham nhũng của tập đoàn Việt gian cộng sản, nên chưa thể phát huy được tiềm năng của người Việt (tị nạn) ở hải ngoại vào việc xây dựng đất nước. Nhưng cái nguyên nhân đó đối với hắn chỉ là thứ yếu có tính cách màu mè trang trí, hắn vội vàng quay mũi súng vào những người "được" gọi là "quốc gia" như sau: "Đây là một sự thiệt thòi rất lớn cho đất nước. Nhưng tôi thấy người Việt sống ở hải ngoại cũng còn có những nhược điểm; chưa thực sự đồng tâm nhất trí. Còn chia rẽ nhiều. Tình trạng chia rẽ nhau cũng dễ hiểu, bởi vì mỗi người ra đi có hoàn cảnh khác nhau. Trong những người gọi là "quốc gia" ở hải ngoại, có những nhược điểm cần khắc phục. Đó là thái độ hận thù còn quá sâu."


Với kinh nghiệm 47 năm phục vụ cho đảng Việt gian cộng sản, phải nói rằng khó có thể tìm một người không cộng sản có đầy đủ kinh nghiệm hiểu biết về con người cộng sản hơn Bùi Tín. Tuy nhiên, cũng xin nêu ra đây vài nhận xét về sự thành công của đảng cộng sản để so sánh với những việc làm về chiến tranh truyên truyền, tuyên vận của đại tá "quân đội phản nhân dân", nhà báo Bùi Tín.

Sự thành công của đảng Việt gian cộng sản nằm trong ba yếu tố chính, là: Tổ chức, tuyên truyền (lừa nhân dân Việt Nam) và tàn bạo.

Về tổ chức, nhất là những tổ chức được gọi là "tổ chức bạn", đảng Việt gian cộng sản đối xử, đối phó như thế nào có thể lấy ví dụ như hai đảng: Dân chủ và Xã hội của các ông: kỹ sư Dương đức Hiền lãnh đạo đảng Dân chủ; ông Nguyễn Xiển lãnh đạo đảng Xã hội.**

Đó là tình trạng ở trong nước. Còn ở hải ngoại là vì bàn tay bạch tuộc của đảng Việt gian không thể trực tiếp nhúng vào vì không có bộ máy đàn áp thi hành, chúng cần có nằm vùng, tay sai, cò mồi dưới sự chỉ đạo của chúng. Nhiệm vụ của bọn này, dù không nói ra, ai cũng biết hoặc dự đoán được là: Triệt để phá hoại, quậy phá lung tung v.v… khiến cộng đồng tị nạn cộng sản không thể đoàn kết thống nhất. Vì vậy, khó có thể nói chuyện thống nhất trong hiện tại. Nhưng tin tưởng rằng mọi người sẽ một lòng khi đứng trước biến cố phải đối phó v.v…

Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại là một khối gần 3 triệu người. Dù có những hoàn cảnh khác nhau như Bùi Tín tả cảnh, nhưng không như Bùi Tín nhận định sai lầm cố ý, vì người tị nạn có cùng chung hoàn cảnh là chạy trốn sự trả thù tàn ác của tập đoàn Việt gian đảng cộng sản. Thế nên, một lòng đối phó khi đứng trước biến cố phải đối phó là thực thể, không là hiện tượng và đã xảy ra cách đây không lâu. Xin chứng minh điều này là đã có đến:


Khoảng 50 ngàn người tập trung ở Little Sài-gòn chỉ để xé cờ máu và hình tên Việt gian Hồ chí Minh; hơn 20 ngàn người tập trung ở Los Angeles để chào kính, chào mừng "Tượng đài Chiến sĩ Việt – Mỹ". Đó là chưa tính đến sự đồng thuận của mỗi gia đình của từng cá nhân người biểu tình, sự ủng hộ của người Việt tị nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới.


Vậy thì, cái gọi khơi khơi là "cộng đồng người Việt ở hải ngoại" chỉ là tuyên truyền kiểu tự vơ đũa cả nắm để "lừa" những người tị nạn cộng sản còn lưng chừng, ba phải, ham lợi ở hải ngoại.

Thế nên, không chỉ riêng "Mây mù thế kỷ" mà phải nói là tất cả những việc làm của Bùi Tín là nhằm vào mục đích:

Chia rẽ cộng đồng tị nạn cộng sản thành hai hoặc thành nhiều nhóm để dễ dàng đập tan tinh thần, tiềm năng đấu tranh vì dân chủ tự do, nhân quyền và thịnh vượng cho Việt Nam. Đây là sách lược chia để trị, để lũng đoạn cộng đồng tị nạn cộng sản đến tan vỡ cho ngụy quyền Hà-nội. Phải gọi hành động của me-xừ Bùi Tín là gì mới đúng nghĩa?


Hơn ai hết, Bùi Tín phải là người hiểu biết tường tận về ý định, về tổ chức, về guồng máy thống trị, về hận thù, về sự tàn ác của ngụy quyền Hà-nội. Nhưng Bùi Tín chưa một lần đưa lên bàn cân làm cuộc cân đo về cái nhãn hiệu đã gắn cho tập thể tị nạn cộng sản: đó là thái độ hận thù còn quá sâu – với thái độ hận thù của tập đoàn Việt gian Hà-nội đối với nhân dân Việt Nam nói chung, người Việt tị nạn cộng sản nói riêng. Thực hiện điều này quả là khó cho vai trò của Bùi Tín vì nó đòi hỏi đến lương tâm chân chính của một người Việt Nam thuần túy!!!

Đặc biệt là từ sau tháng 4/1975, người tị nạn cộng sản với "thái độ hận thù còn quá sâu" đã làm rụng bao nhiêu "sợi lông chân" của bọn ngụy quyền Hà-nội? Có khi nào Bùi Tín suy nghĩ và làm bài tính nhẩm để so sánh điều này chưa?

Không phải chỉ riêng người dân Việt Nam, mà phải nói là lịch sử Việt Nam sẽ không bao giờ quên bao nhiêu triệu người đã bị đảng Việt gian cộng sản của Bùi Tín cầm tù, giết… sau tháng 4/1975. Bao nhiêu trăm ngàn người bỏ thây trên biển cả và với những đau thương khác trên biển khi chạy trốn bọn ác quỷ ngụy quyền Hà-nội.

Nói khách quan hơn để giải quyết vấn đề này ổn thỏa trong tình cảm "hai tay nên ngừng đánh nhau" như đã diễn tả trong “Mây mù thế kỷ”, đại tá lê-dương Bùi Tín cần phải đi tìm nguồn gốc của "hận thù", để từ đó tìm phương cách giải quyết vấn đề trong tình huynh đệ như đã kêu gọi. Nhưng, cựu phó tổng biên tập báo Nhân dân không hề tỏ lộ dấu hiệu nào trong vấn đề này dù chỉ một lời nói phớt qua.

Câu hỏi đặt ra đây là: Tại sao hận thù đã xảy ra và nó từ đâu đến? Ai là người chịu trách nhiệm giải quyết tiến trình nhức nhối này?

Trước khi nêu ra câu trả lời cho hai câu hỏi trên, người viết bài này tin tưởng là me-xừ Bùi Tín cũng thừa biết nhưng lờ đi. Mặc dù vậy, cũng xin nêu ra đây nguyên thủy của "hận thù" đã do đảng Việt gian cộng sản thai nghén, rồi đẻ nó ra, đặt nó nằm trong cái nôi của chính sách "hận thù" nhân dân Việt Nam qua khẩu hiệu:
“Trí, phú, địa, hào
Ðào tận gốc, trốc tận rễ”

Hận thù càng thêm chồng chất vì sự tàn ác, đày đọa, hạ nhục nhân phẩm con người qua chính sách trả thù của đảng Việt gian cộng sản sau ngày 30/04/1975; không còn cách nào dấu diếm nên phải đưa nó vào trong các trang sách, và đó cũng là một việc làm có tính toán của Bùi Tín. Nhưng có một mâu thuẫn trầm trọng là Bùi Tín chỉ kêu gọi nạn nhân xóa bỏ hận thù. Tại sao lại có điều lạ lùng này? Có phải là Bùi Tín thấy rằng người tị nạn làm thân con bò sữa chưa đủ nên phải làm con "bò tót" thì mới vui lòng đại tá của quân đánh thuê “quân đội nhân dân” và ngụy quyền Hà-nội chăng?

Quan sát chủ nghĩa cộng sản sụp đổ êm dịu ở các quốc gia Xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Nếu Bùi Tín can đảm, trung thực thì nhìn thấy cái căn nguyên chính của sự chuyển đổi hòa bình đó là do các đảng cộng sản nắm quyền đã có thái độ đặt quyền lợi của quốc gia họ lên trên hết. Chỉ có một vài đảng cộng sản ngoan cố nên mới gây ra cảnh máu rơi thịt đổ. Nếu, Bùi Tín thực sự "vì yêu nước" không muốn những cảnh đó xảy ra trên đất nước Việt Nam, đã đến lúc quay ngòi bút vào tập đoàn Việt gian Hà-nội, kêu gọi chúng nên có hành động hòa bình như các đảng cộng sản anh em của họ ở Đông-âu. Nhưng e rằng chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra vì khi đọc những bức thư gửi các trùm Việt gian cộng sản, các giới chức chóp bu ngụy quyền Hà nội trong phần sau của "Mây mù thế kỷ", thấy: anh anh, tôi tôi thật thân mật, ngọt như mía lùi cứ như là: tình trong như đã, mặt ngoài còn e, thì làm sao me-xừ đại tá ly khai (cuội) có đủ dũng cảm thực hiện "đấu tranh dân chủ" cho đất nước – Vì thực ra, người tị nạn thừa hiểu sự phổ biến những bức thư đó của nhà kịch sĩ cuội này là không ngoài mục đích vẽ râu để giới thiệu cá nhân "đại tá Bùi Tín" cũng là một VIP; để mồi chài những con mồi nhẹ dạ theo "đại tá" thì sẽ có cơm, có cháo vì làm tà lọt cho VIP đâu là chuyện dễ. Đối với người bình thường luôn quan tâm đến đất nước, thì, nếu chấp nhận chạy theo, hoặc nghe lời dụ dỗ của VIP Bùi Tín là không khác gì đuổi ma cửa trước để rước quỷ cửa sau.

Dân số Việt Nam hiện nay là khoảng 82 triệu dân, nhưng đến 80 triệu cái đầu bị thất nghiệp, chỉ có vài cái đầu gọi "bộ chính trị" có công ăn việc làm là "nghĩ hộ cho 80 triệu cái đầu kia". Hải ngoại cũng đang có hiện tượng là gần 3 triệu cái đầu cũng không cần làm cái công việc "suy nghĩ", vì đã có một vài cái đầu gì đó nhảy ra xin "nghĩ hộ", được thể hiện bằng cách xúi dại người tị nạn cộng sản về thăm quê hương nên: "… mang theo những câu chuyện sinh động dân chủ, dân chủ có lợi như thế nào, về chống độc đoán, chống tham nhũng."


"Rằng hay thì thật là hay, nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!" Ðại tá lê dương Bùi Tín, xin đừng chơi trò dương đông kích tây, nói chuyện sinh động dân chủ và mó vào chuyện "chống độc đoán, chống tham nhũng" của các ông, không khác gì đi mò dế cọp. Công an Việt cộng đông như rươi, lỡ những lời đó lọt vào tai chúng thì cuộc đời ngủm củ tỏi à? Sao không kêu gọi "đa số đảng viên yêu nước như đại tá Bùi Tín đứng lên chống"? Nếu nói rằng sợ bị đảng bỏ tù thì nên kêu gọi và khuyến khích họ đồng loạt vứt thẻ đảng như Boris Yelsin (hình như đại tá Bùi Tín chưa bao giờ thực hiện điều này để chứng minh mình là người yêu nước). Nếu đảng không ngủm thì cũng phải thay đổi. Đây là phương pháp hòa bình và dễ nhất có thể thực hiện được mà không sợ "bị đảng bỏ tù" thì me xừ Bùi Tín không xúi mà chỉ xúi người tị nạn làm chuyện tào lao nguy hiểm. Hơn nữa, chuyện chống tham nhũng không phải là công việc của người tị nạn. Dính vào chuyện này là tự nhận mình là công dân của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phải đóng hụi chết và có thể phải hy sinh mỗi tháng một ngày lương về thuế "trị giá gia tăng" (VAT).

Bùi Tín giảng chính trị, hận thù lung tung beng, vòng vo tam quốc để sau cùng chê người tị nạn cộng sản (quốc gia) không có văn hóa; lên lớp và giảng dạy về văn hóa, về hận thù với giọng lưỡi của kẻ lên mặt thầy đời như sau:"Nhưng cũng nên thấy rằng, cần có cách nhìn văn hóa và tỉnh táo, có nghĩa là, chỉ nên hận thù đường lối lãnh đạo sai lầm của một số người cộng sản bảo thủ."


Người tị nạn cộng sản (quốc gia) chúng tôi không có văn hóa và tỉnh táo như đại tá lê-dương xuống bút viết ra với thái độ khinh thường. Nhưng, chúng tôi không mắc bệnh tâm thần và mù nên trút "hận thù" lên cái gốc cây Việt gian cộng sản để bứng toàn bộ cái cây đó. Còn, đại tá nhà báo cộng sản có: văn hóa – bao nhiêu? – tỉnh táo – như thế nào? – xin cho biết. Vì những gì nhà phản tỉnh cuội viết ra toàn là chuyện ruồi bu có lợi cho ngụy quyền Hà-nội, hoặc nhóm cộng sản phe cánh của cựu phó tổng biên tập báo Nhân dân đang tranh giành quyền hành, quyền lợi ở trong nước.

Và, nếu người đọc, đặt trọng tâm hơn khi đọc, sẽ phát giác ra mục đích của tên đại tá nhà báo cộng sản này cố làm mọi người hiểu rằng tình trạng tồi tệ của đất nước không do bọn cộng sản “không bảo thủ” gây ra; vì thế, chỉ nên: hận thù đường lối lãnh đạo sai lầm của một số người lãnh đạo bảo thủ; nghĩa là, không nên: hận thù những tên cộng sản “không bảo thủ”.

Tuyên truyền mơ hồ, hoang tưởng như thế thì làm sao gây được sức thuyết phục vì có ai biết bọn người này là cha căng chú kiết nào để có thái độ. Còn, nếu muốn quảng cáo cho các loại “đấu tranh dân chủ” với những cái áo khoác màu mè “chiến sĩ dân chủ, tiến sĩ này, giáo sư kia” v.v… của lò Ba-đình thì chỉ tốn công và mất thời giờ thôi, vì chúng đã lòi mặt cuội, là cò mồi của đảng Việt gian cộng sản. Xin nhớ, hiện nay là thế kỷ 21, không phải thời kỳ 1945, tuyên truyền kiểu mắt Hồ chí Minh có bốn con ngươi như công tử Trùng Nhĩ bên Tàu cộng, không còn thích hợp. Tóm lại, theo ý Bùi Tín, mọi người nên vất cái máy vi tính vào thùng rác để tin những gì hắn viết ra.

Cách lý luận cho thấy Bùi Tín cố tình đưa người đọc vào mê hồn trận, để nghĩ rằng là đã có những tên cộng sản “không bảo thủ chống lại bọn bảo thủ”; là sự thúc đẩy người tị nạn chấp nhận làm cái đuôi hậu thuẫn cho bọn này, và v.v…

Tại sao Bùi Tín lại chủ quan như vậy? Tại vì sự tự kiêu tự đại của con người cộng sản vẫn còn trong máu của hắn; cộng thêm một số trí thức miền Nam, tự nguyện làm tà lọt công kênh tên đại tá cộng sản này lên tận mây xanh. Vì vậy, lòng tự phụ của tên cộng sản gạo cội này cũng tăng theo nhịp độ nịnh bợ đó, đã nhắm mắt viết láo, viết vô trách nhiệm, không cần xét đến những dữ kiện thực tế lịch sử - là, từ khi tên đại Việt gian Hồ chí Minh và cái đảng cộng sản của hắn ra đời, tiếp nối cho đến bọn chóp bu hiện nay, tất cả đều nhất trí từ tư tưởng đến hành động… Việt gian. Thí dụ: Nếu không có sự đồng tâm nhất trí của Hồ chí Minh và đồng bọn, thử hỏi hai tên Ung văn Khiêm và Phạm văn Ðồng có dám ký công hàm dâng các hải đảo của Việt Nam cho Tàu cộng? Bây giờ, hãy nhìn vào những biến cố tương tự, sẽ thấy bọn chóp bu ngụy quyền Việt gian Hà-nội hồ hởi phấn khởi dâng thêm đất thêm biển cho quan thầy của chúng; có ai thấy được bất cứ sự phản kháng nào, dù là hình thức từ bọn chóp bu, không ngoài những bào chữa có tính cách lấy lệ cùng với tuyên bố “thắng lợi”(?). Xin hỏi: Tại sao những tên chóp bu cộng sản không bảo thủ vẫn im hơi lặng tiếng? Chúng trốn ở xó xỉnh nào và làm gì? Tóm lại, tên phản tỉnh cuội với sự trợ lực của bọn tà lọt quyết tâm đưa người tị nạn cộng sản vào con “đường mù thế kỷ”!

Một vấn đề khác cần xác định là: ngụy quyền Hà-nội không phải là "chính phủ" của người tị nạn cộng sản thì không có cái kiểu chống, hoặc hận thù chính phủ như Tây, Đầm chỗ “nhà báo” đang ăn dầm nằm dề; tức là chống thiệt, chống tới cùng bọn làm tay sai cho ngoại bang, bán nước, buôn dân, giết dân… là bè lũ đảng Việt gian cộng sản.

Dù múa bút nhuần nhuyễn đến độ nào chăng nữa, nguời tị nạn (quốc gia) cũng thấy Bùi Tín đang cố nắm cộng đồng này để bè cánh ở trong nước có thế mặc cả, hoặc đá đít "một số (đối thủ) người cộng sản không cùng phe cánh" để nắm quyền. Hoặc, bọn ngụy đương quyền ở Hà-nội thấy nhà ly khai cuội nắm được tập thể tị nạn nên phải mời về làm tổng bí thư đảng Việt gian cộng sản, hay thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam?

Cuộc chiến hiện nay nằm trong phạm trù tư tưởng, văn hóa. Mục tiêu chính của chúng là triệt hạ những thế hệ đã chiến đấu chống quân đánh thuê xâm lược đỏ Việt gian cộng sản để bảo vệ miền Nam Việt Nam. Có vô hiệu hóa được những thế hệ này thì mới mong đối phó những thế hệ ra đời ở hải ngoại trên con đường dài mới có hiệu quả. Chiến lược đập đầu chặn đuôi được ngụy quyền Hà-nội và tay chân ở hải ngoại tung hứng có chiến thuật. Vì vậy, các chính quyền từ 1945 đến 1975 của miền Nam, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là những đối tượng chính, chúng không ngừng nghỉ bôi nhọ, hạ nhục để làm mất niềm tin của người tị nạn. Đồng thời, "nơi nào có áp bức thì nơi đó có đấu tranh"; hiểu rộng ra là vì nhân dân có bị áp bức nên mới có hận thù, mới có đấu tranh. Có nghĩa là, phải dập tắt hận thù là dẹp đấu tranh, nên những kêu gọi "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải" là điểm chính trên mặt trận tuyên truyền của ngụy quyền Hà-nội từ nhiều năm qua.

Những dữ kiện trong "Mây mù thế kỷ" đều nằm trong kế hoạch của đảng Việt gian cộng sản. Lần này có thêm một điểm mới là đòi bỏ "Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ"*** qua cách hạ nhục bằng chữ nghĩa. Tóm lại, nội dung của "Mây mù thế kỷ" chỉ là cái vỏ bọc cho 12 chữ nằm trong "Lời nói đầu" mới chính là ý định của Bùi Tín. Xin trích lại dưới đây:

“... rũ bớt được những điều mơ hồ để nhìn nhận quá khứ."


Có nghĩa:

- Đảng cộng sản chiếm miền Nam là một thực thể bất khả hồi mà những người miền Nam phải chấp nhận = nhìn nhận quá khứ.


Thế nên:


- Tiếp tục chống cộng chỉ là điều mơ hồ, không tưởng – cần phải hủy bỏ tư tưởng này = rũ bớt được những điều mơ hồ.


Để tiến đến hòa giải hòa hợp dưới sự lãnh đạo của ngụy quyền Hà-nội.
*****
Ngày nay, sống trên phần đất phương tây, hai chân đạp đất, đầu đội trời, miệng nhai thực phẩm của vùng đất dân chủ tự do, văn minh của nhân loại đầu thế kỷ 21, Bùi Tín thừa hiểu Việt Nam phải đi con đường nào mới thoát ra khỏi vũng bùn đen hiện tại. Nhưng tiếc thay, Bùi Tín vẫn cố đẩy tập thể này vào con đường của thời đại Hồ chí Minh với tập đoàn Việt gian hiện nay ở Hà-nội! Thôi thì, thấy ông cứ loay hoay trong ngõ bí tư duy suốt hàng chục năm qua, xin góp chút ý kiến là ông nên chuyển đổi "Mây mù thế kỷ" thành "Tên mù thế kỷ", sự sáng suốt sẽ trở về với ông, canh bạc xì-phé chính trị này mới chấm dứt. Lúc đó, ông mới có đủ sức mạnh tinh thần để tự phủ định chính mình và nói chuyện nước non. Có được như vậy, ông sẽ thấy thoải mái và can đảm vuốt thẳng ngòi bút, trung thực với lương tâm để có nghị lực làm cuộc cách mạng bản thân là dám nhìn thẳng vào sự thực, viết lên những đau thương của dân tộc; đất nước bị dâng cho ngoại bang từng vùng, từng mảnh; "đấu tranh dân chủ" thực sự mới có cơ hội hiện lên trong trí của ông. Nếu không, cả nước sẽ không thể thoát vũng bùn đen vì bị ông kéo lún sâu thêm vào con "đường mù thế kỷ". Và, nếu là một chính nhân thì phải nhớ lời các cụ ta dặn:
"Tiên trách kỷ – hậu trách nhân"
______________


Chú thích:
*/*** Trích từ bài "Hoan nghênh ông Bùi Tín";
"Ông Bùi Tín và MMTK về Cờ Vang - Cờ đỏ" để biết thêm chi tiết. Xin liên lạc Web: http:// hon-viet.co.uk
** Trích từ sách "Chuyện thâm cung dưới Triều đại Hồ chí Minh" do: Cơ sở xuất bản Hưng Việt phát hành năm 2001 - USA.

Biển Ðông trích từ sách "Cờ Vàng - Cờ đỏ" của tác giả Lý Tuấn.


Trở lại Trang Quan điểm thời sự