Thursday 7 December 2017

Ngôn ngữ: Việt cộng...


Lời Biển Đông 75: Vài tuần qua, một làn sóng phẫn nộ từ trong nước ra hải ngoại về cái gọi là “Cải cách chữ Việt” của đảng Việt gian cộng sản, qua một tên trí thức cộng sản, nguyên “pgs ts Bùi Hiền”, trình làng quảng cáo với công trình“nghiên kíu” chữ viết mới… mà đảng Việt gian cộng sản đã có ý đồ từ khi họ “hồ” và cái đảng cộng sản xuất hiện ở Việt Nam. 
Đảng cộng sản Việt Nam, một chi bộ của cs quốc tế, bây giờ thì coi như là chi bộ của đảng cộng sản Tàu, đang từng bước từng bước biến đất nước Việt Nam thành thuộc địa của Tàu cộng. Thay đổi cách viết chữ Việt đã có hằng bao trăm năm là một tiến trình có kế hoạch, có lớp lang thứ tự…, hiện rõ hơn và thấy được là kể từ sau tháng 4.1975, đã làm người dân miền Nam ngạc nhiên đến độ có cảm tưởng tiếp xúc với người ngoại quốc hằng ngày…, mà những ngoại nhân đó chính là những người cộng sản Việt Nam ngay trên đất nước Việt Nam.
Ngược thời gian trước năm 1975, miền Bắc dưới sự cai trị của Hồ và đảng cộng sản của hắn, người dân miền Bắc đã không còn sức phản kháng và làm sao phản kháng được trước bộ máy cai trị tàn độc của họ Hồ và đảng cs của hắn… Chúng đã thành công và ngôn ngữ Việt của cộng sản Việt Nam đã thẩm thấu vào tâm trí người dân miền Bắc, trở thành ngôn ngữ (cs) một cách tự nhiên. Sau cùng, nó xuất hiện trong dân gian miền Nam sau 1975 cho đến ngày nay; và đang được những “người bạn” của đảng Việt gian cộng sản ở hải ngoại đang cố nhồi nhét nó vào trong não của người Việt tị nạn cộng sản trên các phương tiện truyền thông; đặc biệt là truyền thông ngoại quốc nói tiếng Việt.
Chúng thừa biết rằng khi phổ biến “cải cách chữ Việt” sẽ bị phản ứng dữ dội từ phía dân chúng, nhưng chúng vẫn phổ biến. Có lẽ chúng tin rằng… rồi đây làn sóng chống đối trong nước sẽ xẹp xuống… mà chỉ còn chống đối ở hải ngoại mà thôi.
Chờ xem!
Bìển Đông 75 trân trọng mời Quý vị độc giả đọc lại bài “Ngôn ngữ: Việt cộng và Việt Nam” đã phổ biến vào ngày 22.10 2014 trên blog này.

Biển Đông 75

---o0o---


Bản chữ Việt “mới” của Việt cộng Bùi Hiền

(Ảnh sưu tầm trên web)

==oOo==

Wednesday, 22 October 2014
Ngôn ngữ: Việt cộng và Việt Nam
Trần biển Ðông
Ngôn ngữ của một dân tộc được phát triển theo từng thời kỳ lịch sử, thay đổi theo đà văn minh tiến bộ của nhân loại, dù rằng mỗi dân tộc có một nền văn hóa đặc thù riêng biệt. 
Việt Nam cũng nằm trong tiến trình này. Ngôn ngữ của chúng ta đã không đứng dừng ở một chỗ và vẫn được canh tân đều đặn theo thời gian, phong phú hơn.
Trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam đang bị thống trị bởi bọn người "vô tổ quốc và là thái thú của Tàu cộng", với cái tên "đảng cộng sản Việt Nam", ngôn ngữ Việt Nam bị bọn người này thay đổi bằng loại ngôn ngữ không trong sáng... của chúng, hủy diệt ý nghĩa hay đẹp của ngôn ngữ chính thống dân tộc, với sự đồng tình và câm lặng của giới trí thức làm văn hóa của đảng (hay họ là những người đã sáng tác ra loại ngôn ngữ tối nghĩa cho đảng Việt gian cộng sản?); mà me-xừ Bùi Tín luôn luôn kính cẩn gọi bọn này là "lớp trí thức cao nhất của đảng"; của văn nghệ sĩ XHCN v.v...
Có người nói rằng nên chấp nhận sự thay đổi ngôn ngữ của Việt cộng, vì ngôn ngữ VC cũng là sự tiến hóa theo đà phát triển của dân tộc, không nên chống để mang tiếng là chống cộng "cực đoan - quá khích" vì đến ngôn ngữ mà cũng chống.
"Quá khích - cực đoan" không là vấn đề nằm trong trường hợp phân tích ngôn ngữ. Ðây không phải là "chống" mà là "chỉnh đốn" cái sai để trở về cái tốt của dân tộc, hiện đang bị đảng Việt gian cộng sản thay đổi có mục đích.
Nhìn xa hơn và nhất là hiện tình đất nước ngày nay, đây có thể là sự chuẩn bị biến Việt Nam thành một tỉnh của Tàu cộng, khi ngôn ngữ chính thống của người Việt Nam đã bị đảng Việt gian cộng sản triệt tiêu vì không còn ý nghĩa? Và đây có phải là sự tiến hóa theo đà phát triển của dân tộc?

Bây giờ, ta có thể lấy một vài sự thật làm thí dụ điển hình như sau: Ta thường đọc... những bài viết phổ biến ở hải ngoại, như: về "thủy quân lục chiến" của Mỹ - chúng gọi là - "lính thủy đánh bộ"; về "tòa bạch ốc" thì là "nhà trắng"; ngũ giác đài thì là "lầu năm góc" v.v... Những thay đổi này chắc là thích hợp với những người không quá khích, cực đoan - đang biện luận để bảo vệ sự thay đổi của Việt cộng (?), nên họ không quan tâm đến nền văn hóa của dân tộc; chỉ quan tâm đến sự thành công hay thất bại của họ, hay NQ 36, hoặc cả hai?
Việt công không thể thực hiện được nghị quyết 36 nếu không có tay sai trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản; hoặc thành phần "chống cộng" với chủ trương "văn hóa không biên giới"; giống như "văn nghệ không biên giới" được bảo vệ bởi một vài cây viết và đám ca sĩ hát nhạc họ Trịnh, và vì đô la của Việt cộng. Một phương pháp hòa hợp "văn hóa Việt Nam - Việt cộng", tức là thống nhất với ngôn ngữ "hải quân đánh bộ; cây cầu có khả năng sập".
Vài năm trở lại đây, những bài viết với ngôn ngữ Việt cộng được phổ biến trên một số web, blog ở hải ngoại với vận tốc gia tăng, kèm sự giải thích không thuyết phục khi có người lên tiếng phản đối; vì nếu chấp nhận sự phản đối và thay đổi, ngôn ngữ Việt cộng sẽ bị chận đứng; nghị quyết 36 về văn hóa sẽ hoàn toàn thất bại và đem lại hậu quả không thể đoán trước được. Ðây là điều Việt cộng và tay sai đang cố giữ cho bằng được sự hiện diện ngôn ngữ "chùm thơ, chùm ảnh; chuyên cơ" trên các phương tiện truyền thông của người tị nạn cộng sản ở hải ngoại.
Tuy nhiên, nếu quý bạn đọc lưu ý thì sẽ thấy "đảng yêu Việt cộng" ngụy trang trong vai trò "trung lập" phổ biến những tin tức, bài viết... liên hệ đến Mỹ. Ðặc biệt hơn nữa, chúng hiểu rằng rất ít người đọc lưu ý đến ngôn ngữ Việt cộng đối với những loại bài diễn tả về tác dụng các loại vũ khí cùng với hình ảnh của quân đội Mỹ; nghĩa là dùng Mỹ để đưa ngôn ngữ của chúng vào tim óc người Việt tị nạn cộng sản nhưng không bị chống đối, mà lại được sự thông cảm và chấp nhận vì là những bài mang tính quảng cáo "có lợi" cho "phe ta".
Ngôn ngữ của bọn người "vô tổ quốc" cũng có thay đổi theo định hướng của bọn người không có cội nguồn, và có sự tính toán rõ ràng, nói rõ hơn: có hệ thống. Cái hệ thống này nằm trong "vấn đề giáo dục". Từ tuổi ấu thơ đã phải học chương trình mẫu giáo của Tàu (theo tin trong nước tiết lộ là sách mẫu giáo của nước CHXHCN Việt Nam được dịch từ "sách mẫu giáo của Tàu cộng"); từ ban "tuyên giáo trung ương". Thế nên, con người trong chế độ của chúng bị nhồi sọ từ khi bắt đầu học i-tờ cho đến khi lớn khôn thành người XHCN; mà văn hóa Tàu cộng giữ vai trò khai trí ngay từ lớp vỡ lòng mẫu giáo bằng ngôn ngữ Việt cộng. Ta có thể kiểm chứng bằng cách đọc những web, blog của giới trẻ trong nước thì sẽ thấy họ viết "ngôn ngữ Việt Nam" như thế nào.
Hồ chí Minh khẳng định tư tưởng của y với câu viết, rằng: "Người cộng sản không có tổ quốc", đăng trên tờ "Người cùng khổ" (Le Paria) xuất bản tại Paris vào đầu thập niên 20 của thế kỷ 20.
Trần huy Liệu, tên sử gia đầu tiên của đảng Việt gian cộng sản, đã khai triển và xác định tư tưởng của Hồ chí Minh làm kim chỉ nam cho toàn bộ đảng Việt gian cộng sản, bằng lời viết trong bộ sử của chúng, đại khái: "Lịch sử Việt Nam bắt đầu từ khi đảng (cộng sản) ra đời".
Qua hai sự xác định: tư tưởng của Hồ chí Minh và tên sử gia Trần huy Liệu là những dẫn chứng rõ ràng trên giấy trắng mực đen; và sau khi tên đồ tể tổng bí thư Lê Duẩn theo Hồ đi chầu tổ tiên Mác - Mao...; đảng Việt gian cộng sản, một lần nữa, khẳng định rõ ràng chúng đã dùng xương máu nhân dân Việt Nam cho mục đích: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc" được ghi trên trên lăng của tên Việt gian này!(*)

"Lăng của tên Việt gian Lê Duẩn"
Ðây là sự xác định Việt Nam không có lịch sử; là sự chuẩn bị sát nhập Việt Nam vào các đế quốc đỏ Nga-Tàu. Vì vậy, khi Việt Nam chỉ có lịch sử "đảng cộng sản" thì phải hiểu, Việt Nam đã là phần đất của cộng sản quốc tế. Vậy thì việc dâng đất, biển cho Tàu cộng nằm trong kế hoạch đã được đề ra, cầm đầu là Hồ chí Minh, là công việc tất nhiên và phải được liên tục thực hiện của đảng Việt gian cộng sản, vì đây là bổn phận của chúng. Hồ chí Minh và toàn bộ đảng cộng sản Việt Nam chỉ là một bầy Việt gian không hơn không kém.
Tóm lại, tiêu diệt ngôn ngữ và dâng đất nước cho Tàu cộng là hai việc khác nhau, nghe có vẻ không đồng hành, nhưng thực tế là một, nằm trong kế hoạch dài hạn, có thể cả thế kỷ.
Vì biết không thể thực hiện việc tiêu diệt ngôn ngữ chúng ta một sớm một chiều, chúng thực hành kế hoạch tằm ăn dâu. Bởi vì, quá trình lịch sử đã chứng minh là dù bị bọn Tàu phương bắc đô hộ hàng ngàn năm, chúng đã không diệt được ngôn ngữ của chúng ta, Việt Nam mới tồn tại đến ngày hôm nay. Thế nên, diệt ngôn ngữ là một trong những điều cần thiết ưu tiên, tức là làm dân tộc ta không còn khả năng kháng cự trên mặt trận văn hóa, ngôn ngữ. Nếu chúng thành công trong sách lược này, người Việt Nam bắt buộc phải dùng "ngôn ngữ" Tàu làm ngôn ngữ của mình và là lúc đất nước Việt Nam trở thành một tỉnh của Tàu cộng. Bác thuộc lần thứ tư và bị đồng hóa?
Dưới sự thống trị của đảng Việt gian cộng sản, các thế hệ ra đời trong chế độ này không thể nào có khả năng nhận ra sự thật; và kể cả những thế hệ sinh ra sau 1975 trên toàn đất nước Việt Nam; họ bị "giáo dục" nhồi nhét chủ nghĩa Mác-Lê, lịch sử "đảng cộng sản" tức là chân lý - đảng nói là hoàn toàn đúng; dâng đất nước cho Tàu cộng là đúng, là chân lý". Nếu những ai không tin, đề nghị nên tìm "du sinh" làm cuộc thực nghiệm về kiến thức lịch sử Việt Nam của họ thì sẽ tỏ tường, đồng thời lưu ý đến ngôn ngữ của họ.
Nhưng trong cái hiểm nguy cũng còn có cái may. Cái may là nhờ vào hệ thống thông tin toàn cầu hiện nay, giới trẻ trong nước bắt đầu nhìn ra sự thật, mặt thật của đảng cộng sản Việt Nam chỉ là bọn Việt gian, với "nhà nước" phản động, dâng đất nước cho Tàu cộng vì thực chất của bọn người này là tay sai của ngoại bang. Chưa hết, khả năng bọn này là khả năng của băng nhóm mafia có quyền, có súng trong tay, đàn áp (xin thưa: không phải hai từ "ức hiếp" để diễn tả cho hành động ăn cướp, nghe không được "êm tai") dân; cướp nhà, cướp đất của dân là chính sách - Họ bắt đầu có thái độ, tức là thể hiện lòng yêu nước của người Việt Nam chân chính được nối truyền từ bao ngàn năm qua. Ngôn ngữ giữ phần quan trọng trong tiến trình cách mạng mới này của người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ trong nước!
Ngôn ngữ Việt Nam còn thì đất nước Việt Nam còn.
Chúng ta không quên ơn tiền nhân đã can đảm giữ và phát triển đất nước; đồng thời thực hiện cuộc cách mạng văn hóa và để lại cho chúng ta một gia tài, một kho tàng văn học, ngôn ngữ trong sáng mà chúng ta đang thừa hưởng.

Chúng ta phải noi gương tiền nhân và có bổn phận giữ gìn, phát triển ngôn ngữ chúng ta càng thêm phong phú, thích hợp với đà tiến của nhân loại.
Xin đừng hùa theo Việt cộng, hoặc vì lý do nào đó mà phổ biến những bài viết của Việt cộng với ngôn ngữ, "tàu sân bay; trời có khả năng mưa, cây cầu có khả năng sập v.v..."; dù rằng đó là những bài vở, hình ảnh để xem và đọc - Vì, nếu loại ngôn ngữ này không trực tiếp thì cũng gián tiếp xâm nhập vào trí não của người Việt tị nạn cộng sản, đáp ứng mục tiêu thống nhất ngôn ngữ "tên lửa đạn đạo" từ trong nước ra hải ngoại của NQ 36 - Ðể làm gì? Xin thưa: Ðể người Việt tị nạn cộng sản thành dân của nước CHXHCN/VN với ngôn ngữ "đang theo đà tiến hóa và phát triển của dân tộc... Tàu".
Chuyện này coi bộ giống như "chùm thơ; chùm ảnh..." nhưng thiếu "chùm ruộc"!

Ngày 16/10/2013
*Hiệu đính ngày 22.4.2016
____________
Biển Ðông 75  
7.12.2017

Thursday 30 November 2017

Con Sư Tử Đói...


Con Sư Tử Đói Thức Giấc Đang Quậy Phá Khắp Nơi

Nguyễn Cao Quyền

(Danlambao)

Cách đây 200 năm (1816), Napoleon Bonaparte, vị hoàng đế trẻ nhất của nước Pháp đã nói về nước Tàu bằng một nhận xét như sau: “Hãy để con sư tử này ngủ yên, vỉ nếu thức tỉnh, nó sẽ làm cả thế giới run sợ”. Câu nói này ngày nay đã trở thành sự thật và sự thật đó sẽ được trình bày trong những đoạn viết tiếp theo với những hành vi của Tàu cộng.
Biến cải lục địa đen thành thuộc địa 
Tàu cộng đang biến cải Phi Châu thành thuộc địa. Các lãnh đạo Tàu muốn Phi Châu là chư hầu ở xa để vừa giải quyết nạn nhân mãn vừa chiếm được tài nguyên thiên nhiên. Trong khi Hoa Kỳ và cả thế giới im lặng trước hành động này, Tàu cứ tiến tới.
Một triệu quân Tàu di chuyền ngang dọc Phi Châu và Nam Mỹ để chiếm các nguyên liệu chiến lược và chiếm các thị trường mới nổi, trước Mỹ, Nhật và Âu Châu. Thế giới cần phải coi chừng con sư tử đói thức giấc này.
Đế quốc Tàu là một nước tham lam vô độ. Nó tiêu thụ nửa số xi măng và nửa số thép của thế giới, một phần ba số đồng, một phần tư số aluminium, và những số lượng vĩ đại antimony, chronium, cobalt, lithium, zinc và gỗ.
Những nguyên liệu này, quốc gia nào trên thế giới cũng cần, nhất là Hoa Kỳ và các quốc gia kỹ nghệ Âu Châu. Bauxite và sắt của Guinea và Tanzania dùng để sản xuất phi cơ ở Seattle (Mỹ), đóng tàu ở Bath (Maine - Mỹ), đồng của Chile dùng làm giây điện, cobalt của Congo dùng trong các sở cơ khí ở Michigan (Mỹ), lithium của Bolivia dùng để chế tạo xe hơi, manganese của Gabon dùng trong kỹ nghệ nhựa, titanium của Mozambique, Madagascar, Paraguay dùng để sản xuất thép tốt trong kỹ nghệ máy bay, làm đầu gối và hông người nhân tạo trong y tế. Tàu cộng đang lăn xả vào các đống nguyên liệu này để giữ làm của riêng. Hậu quả sẽ không thể nào lường trước được cho các nền kinh tế khác ngoài lục địa Trung Hoa.
Thủ thuật cướp tài nguyên thiên nhiên bằng sức mạnh mềm
Việc khai thác dầu hỏa ở Phi Châu cần sự tiến bộ. Nhưng Tàu cộng đến đây không phải để giúp mà để cướp. Thủ thuật cướp bằng sức mạnh mềm là giơ cao tấm chi phiếu to và hứa hẹn cho vay rộng rãi với lãi xuất thấp để xây dựng hạ tầng cơ sở, hoặc dinh tổng thống, hoặc mua vũ khí AK47. Đổi lại phía đi vay chỉ cần chấp nhận hai điều kiện: 1/ thứ nhất, khi nhận tiền phải giao nộp ngay tài nguyên thiên nhiên; 2/ thứ hai, phải mở cửa cho hàng đã chế biến vào thị trường thuộc địa.
Thủ thuật này tạo công ăn việc làm cho đế quốc Tàu và giúp các công ty đế quốc thịnh vượng. Quảng Châu, Thành Đô, Thượng Hải tiếp tục phát triển trong khi các thuộc địa mới của Tàu tiếp tục lụn bại.
Sức mạnh mềm trở thành công cụ bành trướng
Ai đến Phi Châu cũng thấy ngay là toàn thể lục địa này đang bị Tàu xâm chiếm bằng sức mạnh mềm. Thủ thuật ngoại giao bằng sức mạnh mềm (nghĩa là cho vay) đang được Bắc Kinh áp dụng khắp mọi nơi trên mặt lục địa này. Angola trả nợ Tàu bằng dầu, Ghana trả nợ Tàu bằng hạt cacao, Nigeria trả nợ Tàu bằng khí đốt... Không một nước nào được hưởng lợi với đế quốc Trung Hoa.
Ở Zimbabwe, Tàu bóc lột còn tàn nhẫn hơn. Tàu bỏ ra 5 tỷ đô la mua một mỏ platinum đáng giá 40 tỷ đô la. Với 5 tỷ đô la đó, nhà độc tài Robert Mugabe xây lâu đài mới, mua trực thăng vũ trang và phi cơ phản lực cùng với rất nhiều vũ khí khác để đàn áp dân lành.
Hiện tượng này, không chỉ xảy ra tại Phi Châu mà còn ở khắp nơi trên thế giới. Tại Peru, Tàu cộng đã làm chủ một ngọn núi đồng. Tàu chỉ mua ngọn núi này với 3 tỷ đô la mà bây giờ đang hưởng lợi tới 2000%. Trong khi đó dân Peru vẫn tiếp tục đói khát, mù chữ và phải đối mặt với đủ thứ tai nạn lao động.
Khi Tàu cộng kiểm soát bauxite ở Brazil, Guinea, Malawi, đồng ở Congo, Kazahkstan, Namibia, sắt ở Liberia, Somalia, manganese ở Burkina Fasco, Campuchia, Gabon, chì ở Cuba, Tanzania, kẽm ở Algeria, Nigeria, Zambia... thì còn đâu cho các xưởng ở Cincinatti, Memphis, Pittsburg của Mỹ và các xưởng của các quốc gia khác như Đức, Nhật, Seoul.
Người ta có nhiều lý do để sợ rằng xe hơi tương lai sẽ sản xuất ở Lan Châu (Lanzhou) và Vũ Hồ (Wuhu) thay vì ở Detroit và Huntsville, máy bay sẽ sản xuất ở Binzhou và Thẩm Dương thay vì ở Seattle và Wichita, chip cho máy vi tính sẽ làm tại Đại Liên (Daliem) và Thiên Tân thay vì tại Silicon Valley, thép của thế kỷ 21 sẽ được sản xuất nhiều hơn tại Đường Sơn (Tangshan) và Vũ Hán (Wuhan) thay vì ở Birmingham. Alabama và Illinois của Hoa Kỳ.
Chắc chắn đây không phải là thị trường tự do và hợp tác thương mại quốc tế nữa. Ai cũng phải rùng mình với chuyện đang xảy ra này. Nhưng không hiểu sao trong các phòng họp chính trị ở Washington, Berlin, Tokyo các chính khách vẫn giữ thái độ “sống chết mặc bay” và chẳng thèm để ý.
Nếu cảnh này cứ tiếp tục thì rồi đây Tàu cộng sẽ ở vị thế độc quyền về tài nguyên với giá thấp nhất và như vậy Tàu có thể cạnh tranh với Mỹ và cả thế giới. Kế hoạch thâu tóm tài nguyên của Tàu tương đương với việc cấm vận tài nguyên đối với các quốc gia khác trên mặt địa cầu.
Một cuộc di dân trá hình
Trên thực tế không phải chỉ có kỹ sư và kiến trúc sư Tàu đến Phi Châu. Nông dân cũng đến luôn. Lúc đầu Tàu hứa hẹn cho vay tiền để xây dựng hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, nhưng khi khởi công xây cất thì Tàu lại mang cả triệu công nhân sang để mặc nhiên tranh chỗ. Tàu đưa dân mình qua tối đa và chỉ thuê dân địa phương ở mức tối thiểu. Cho nên người dân của các thuộc địa mới của Tàu như Angola và Zimbabue vẫn bị nghèo đói và thường bị nội chiến vì sự tráo trở của Tàu.
Ngoài mục đích thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường mới, Tàu còn có kế hoạch xuất cảng nhiều triệu dân qua Phi Châu và Nam Mỹ để giải quyết nạn nhân mãn. Trên lục địa Trung Hoa có 600 con sông thì 400 sông đã kể như chết vì quá ô nhiễm. Wikeleaks tiết lộ Bắc Kinh muốn dời 300 triệu dân sang Phi Châu. Khi các chính quyền Phi Châu không thể trả nợ thì chắc chắn hiện tượng di tản này sẽ xảy ta. Mỹ hiện tại đang nợ Tàu khoảng hai ngàn tỷ đô la: các tiểu bang Montana và Wyoming vắng dân có thể đang là những điểm ngắm của Bắc Kinh.
Trong thập niên qua 700.000 dân Tàu đã định cư tại Phi Châu. Kế hoạch vẫn còn tiếp tục. Cờ Tàu bay phấp phới khắp mọi nơi trên lục địa đen. Các tòa đại sứ mới của Tàu đang tiếp tục được xây cất, các sân bay mới đang được hoàn tất.
Dân Tàu tràn sang Phi Châu như cơn nước lũ. Các khu đô thị biệt lập với hàng rào bao bọc mọc lên khắp nơi, nhưng không cho người da đen bén mảng. Hơn một triệu nông dân Tàu đang cày cấy đất Phi Châu, sản xuất thực phẩm để xuất cảng ngược về Hoa Lục trong khi dân địa phương vẫn thiếu thực phẩm tiêu thụ.
Theo tuần báo The Economist, Tàu đã chiếm bảy triệu mẫu dầu cọ (palm oil) của Congo để làm xăng hữu cơ. Hình thức “nông trại hữu nghị” đang được sử dụng tại các xứ Gabon, Ghana, Guinea, Mali, Mauritania và Tanzania.
Dùng gái điếm để thu hút di dân tới những nơi vắng vẻ
Tàu mang sang Phi Châu cả gái điếm, để họ kiếm ăn ớ những nơi xa xôi có những công trình của Tàu đang xây cất. Tại Cameroon gái điếm Tàu chỉ đòi có 2000 CFA (4.25 đô la) trong khi các cô gái địa phương thì nhất định đòi 5000 CFA mới chịu lên giường. Tại Congo Brazaville có một chuyện khá buồn cười cần kể lại. Các cô gái điếm khi được giải thoát lại không chịu trở về Trung Quốc. Lý do là ở lại đất Phi Châu các cô kiếm được nhiều tiền hơn và được đối xử tốt hơn là ở quê nhà tại Tứ Xuyên (Sichuan).
Hệ sinh thái của nước Tàu bi tàn phá khủng khiếp vì quá trình hiện đại hóa nhanh chóng. Giờ đây Tàu lại đang tàn phá hệ sinh thái của các nước chư hầu mới. Nỗi thống khổ của dân bản xứ nói sao cho xiết vì sư trân tráo của các nhà độc tài địa phương là vô giới hạn. Ngoài việc hệ sinh thái bị tàn phá, các khoản tiền khác kiếm được từ việc khai thác các mỏ kim cương và việc bán gỗ rừng đều đã được các nhà độc tài này dùng để mua vũ khí đàn áp dân lành, gây ra những cuộc nội chiến đẫm máu.
Quyền lực mềm của Tàu đang hoành hành cả tại Úc và Nam Mỹ
Trong số 640 triệu vũ khí nhẹ đang lưu hành trên thế giới thì 100 triệu lưu hành tại Phi Châu. Những chế độ độc tài khát máu như Angola, Sudan, Zimbabue là những chế độ đứng đầu bảng giết hại dân lành.
Có một lần, Ôn Gia Bảo tuyên bố ở nghị viện Gabon rằng: “Chỉ buôn bán thôi, không có điều kiện chính trị gì cả”. Với chủ trương này, Tàu làm ăn với bất cứ một chính quyền địa phương nào dù tàn bạo đến đâu, thối nát đến đâu. Trong khi các nước văn minh như Mỹ, Anh Pháp, cố gắng tạo áp lực lên bạo chúa, bạo quyền thì Tàu gian manh đi luồn cửa hậu.
Vào lúc này Tàu đang tìm cách tiếp cận với Úc để nâng cao các liên lạc ngoại giao. Tàu muốn đầu tư lớn vào nhiều khu vực khai thác mỏ ớ Úc. Điều đáng ngạc nhiên là các nền kinh tế có cơ cấu dân chủ như Úc, Brazil, Nam Phi... vẫn bị tiền Tàu cuốn hút.
Tại Úc trong vài năm qua một số công ty Tàu như China Minmetals, Hunan Valin Steel & Iron, Shangai Baosteel đã ký được những hợp đồng khai thác tài nguyên vĩ đại. Trong ngắn hạn vài trăm gia đình thượng lưu Úc sẽ giàu to, nhưng trong tương lai nước Úc sẽ lâm vào cảnh nghèo khó vì các mỏ bị vét sạch. Trong trung hạn sự thâm thủng mậu dịch với Tàu sẽ xảy ra vì Tàu dùng nguyên liệu của Úc rồi lại đem các chế phẩm hoàn tất bán ngược trở lại trên đất Úc.
Tại Brazil và Nam Mỹ Tàu cũng có những chính sách tương tự nhưng yếu hơn. Việc làm ăn giữa Tàu và Brazil được báo Washington Post mô tả như sau: “Trên bãi cát vàng dài 175 dặm ở bờ Đại Tây Dương, phía Bắc Rio De Janeiro, Tàu đang xây dựng một thực thể kinh tế mới. Tại đây người ta thấy những con tàu khổng lồ đang lấy quặng sắt hoặc lấy dầu trở về Bắc Kinh. Nhìn chung thành phố này lớn gấp đôi Manhattan với nhiều hãng xưởng hoạt động tấp nập...” Sự đầu tư của Tàu vào Brazil sẽ làm chậm sự phát triển của các công ty thuộc chính quyền địa phương.
Kết luận
Trong bài diễn văn đọc tại Paris khi đến tham dự lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Pháp-Trung, Tập Cận Bình có nhắc lại câu nói của Napoleon Bonaparte, nhưng y đã thêm một lời khuyến dụ như sau: “Con sư tử Trung Quốc giờ đây đã thức dậy nhưng đây là một con sư tử hòa bình, dễ mến và văn minh”.
Lời khuyến dụ của Đặng Tiểu Bình không được nhiều người tin tưởng. Giáo sư Jean Pierre Cabestan của trường đại học Hong Kong nhận xét: “Sư tử là một con vật to lớn, hoang dại, chuyên ăn thịt những con thú khác, khá giống Trung Quốc trong mối quan hệ của họ với các nước xung quanh”.
Nhà báo Trần Thế Diệu, chủ bút tờ Thế Giới Nhật Báo tại New York viết thêm rằng: “Rõ ràng câu nói đó chỉ dành cho người Trung Quốc nghe mà thôi chứ người ngoài không ai tin nổi”.
Giáo sư Richard Rigby của Đại Học Quốc Gia Úc tóm lược cách tiếp cận của Trung Quốc hiện nay là: “Cứ lấn tới ở bất cứ nơi nào chúng ta có thể”. Nhận xét này của Rigby cũng được giáo sư Hoàng Tĩnh của Đại Học Quốc Gia Singapore đồng ý và nói theo cùng một chiều hướng: “Họ là những người làm những gì có thể, bất kể là có nên hay không”.
Đã đến lúc Hoa Kỳ và thế giới dân chủ phải có thái độ và hành động quyết liệt hơn với cái đế quốc thực dân mới đang hoành hành như chỗ không người. Cái giây thòng lọng mà Bắc Kinh quàng vào cổ nền kinh tế thế giới đang từ từ siết chặt. Kinh nghiệm này Hoa Kỳ đã trải qua kể từ khi Washington lỏng tay cho Đặng Tiểu Bình tác yêu tác quái.
Bài này cũng viết cho người dân Việt Nam đọc để có một thái độ thích ứng và cương quyết với bọn tà quyền cộng sản Hà Nội. Lúc này là lúc mọi người Việt Nam yêu nước phải đứng lên đập bỏ cái cơ cấu độc tài toàn trị bán nước đang đưa dân tộc đến họa diệt vong.
Cái chiến lược “tầm ăn dâu” mà bọn Tàu nham hiểm đang áp dụng trên thế giới và cả tại nước ta, từ ngày hiệp định Thành Đô được ký kết, phải được dập tắt ngay.
Cả nước phải sáng suốt nhận định được thế nào là “họa cộng sản” và can đảm đứng lên làm cách mạng dân chủ nếu không tổ quốc sẽ tiêu vong. Thời gian để hành động không còn nhiều nửa. Cộng sản đã dồn dân tộc vào dưới chân tường và chiến trận này phải là trận chiến “một mất một còn”.
18.07.2017
____________
Biển Đông 75
1.12.2017


Wednesday 29 November 2017

Hoàng Sa - Trường Sa...


[ChinhNghia] Fw: [VN-TD] Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Chủ Quyền Bất Khả Tranh Cải của Việt Nam

Que Nguyen quetringuyen@yahoo.com [chinhnghia] 

To:chinhnghia@yahoogroups.com

‎29‎ ‎Nov at ‎02‎:‎34

----- Forwarded Message -----

From: Nhon Nguyen nhon37@hotmail.com [VN-TD]

To: Nhon Nguyen

Sent: ‎Tuesday‎, ‎November‎ ‎28‎, ‎2017‎ ‎04‎:‎06‎:‎01‎ ‎PM‎ ‎EST

Subject: [VN-TD] Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Chủ Quyền Bất Khả Tranh Cải của Việt Nam

Kính chuyển

Nguyễn Nhơn


 Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Chủ Quyền Bất Khả Tranh Cải của Việt Nam

Trích: " Paris: Tin vui cho Việt Nam: Lần đầu tiên từ lâu truyền thông Việt về Biển đảo HS/TS đươc công luận & báo chí Pháp và UNESCO tích cực ủng hộ chiếu tướng BK!! // Bưu Chính Pháp phát hành Bộ Tem cò Biển đảo VN // Pháp đang tăng cường ... " ( Thaison Nguyen )

Để đáp lời Giáo sư Thaison Nguyen, xin gởi lại một bản sưu khảo và một bài ca xác quyết: " Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Chủ Quyền Bất khả Tranh cải của Việt Nam. "

Nhật ký Biển Đông Hoàng Sa - Trường Sa hai mảnh Việt Nam trôi dạt trên biển Đông



Lịch sử Hoàng Sa thời Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn‏
Bản đồ Đông Nam Á do người phương Tây vẽ năm 1606, Hoàng Sa (Pracel) được ghi thuộc Champa tại vị trí trong đất liền giữa Cinoa (Thuận Hóa) và Champa là Cofta de Pracel (bằng tiếng Latin).
Quần đảo oàng Sa (Paracel), với tên gọi "Baixos de Chapar ou de Pulls Scir", tức là Bãi cát Chămpa (bãi đá ngầm), nằm trong Vịnh Cochinchine (Golfe de la Cochin Chine), phần phía đông bắc của bản đồ khu vực Đông Nam Á do Jean-Baptiste Nolin (1657-1708) vẽ xong năm 1687.
Quần đảo Hoàng Sa (Isles Pracel) cùng với tên gọi "Baixos de Chapar de Pullo Scir", trong bản đồ của Joachim Ottens (1663 - 1719) vẽ xong năm 1710.
Bản đồ Đàng Ngoài Việt Nam (Ton Kin), Đàng Trong Việt Nam (Cochin Chin) cùng quần đảo Hoàng Sa (le Paracel) (có cùng một cách tô đường viền màu xanh dương nhạt), Lào (Laos), Trung Hoa (Chine) cùng đảo Hải Nam (Hainam I.), năm 1771. Trong bản đồ gốc cương vực Vương quốc Trung Hoa được giới hạn bằng đường viền màu vàng và không bao gồm quần đảo Hoàng Sa (le Paracel).
Bản đồ đường qua xứ Quảng Nam thời Lê trung hưng, theo Thiên Nam lộ đồ vẽ lại năm 1741(bản sao chép của Dumoutier). Bãi cát vàng (鐄葛?) trên bản đồ tức là Hoàng Sa
Hoàng Sa (phía dưới, bên trái, ghi là "Bãi Cát Vàng"), trong tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá biên soạn năm Chính Hòa thứ 7 (1686) đời Lê Hy Tông
Bản đồ Biển Đông của Robert Sayer (1725-1794), nhà xuất bản Luân đôn in năm 1791 ghi chú là: Paracel Bank (quần đảo Hoàng Sa) vẽ theo Dự thảo Hàng hải chỉ nam của xứ An Nam (Cochin China Đàng Trong) năm 1764.
Các quần đảo Hoàng Sa (黄沙) và Trường Sa (tức Vạn lý Trường Sa, 萬里長沙được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ (năm 1834-1840).
Bản đồ Paracels Islands (Hoàng Sa) một phần của CochinChine (Vương quốc An Nam) năm 1827.
Quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của Đức năm 1876 vẽ vùng Viễn Ấn Hinter-Indien với lời ghi rõ quần đảo thuộc xứ "Annam"
Châu bản triều Nguyễn (阮朝硃本) về việc xây đền thờ ở Hoàng Sa (黄沙寺) của đội Hoàng Sa do Phạm Văn Nguyên (笵文原) chỉ huy, (Văn bản soạn ngày 13 tháng 7 âm lịch năm Ất Mùi, Minh Mạng 16, tức ngày 5 tháng 9 năm 1835).
Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa (黄沙), ngày 13 tháng 7 năm Đinh Dậu niên hiệu Minh Mạng thứ 18 (ngày 13 tháng 8 năm 1837).
Những người đánh cá Việt Nam sống trên các đảo tuỳ theo mùa nhưng từ bao giờ thì không thể xác định được. Những người đánh cá từ các quốc gia láng giềng khác nhau thường xuyên lui tới đảo này trong hàng thế kỉ và những người đi biển có nguồn gốc ở xa hơn (người Ấn ĐộẢ Rập, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan) đã biết và nói về các đảo này từ lâu.[8] Trong số đó, có các nhà hàng hải Pháp xuống tàu từ cảng La Rochelle, ngày 7 tháng 3 năm 1568 cùng với các nhà bác học dòng Tên đi Viễn Đông đã đến Hoàng Sa.[9]
Đầu thế kỉ 17: Chúa Nguyễn tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm. Theo Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đônthì: "Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia phải đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngot. Trong đảo có bãi cát vàng dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy... Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhân giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu ([nước ngoài bị đắm vì bão]),... Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp,... Họ Nguyễn đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi,..., cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên,..., cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản... Hoàng Sa gần phủ Liêm Châu đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền cá Bắc Quốc,...".[10] Lịch triều hiến chương loại chí viết: "Xã An Vĩnh, huyện Bình Dương ở gần biển. Ngoài biển, phía Đông Bắc có đảo [Hoàng Sa] nhiều núi linh tinh, đến hơn 130 ngọn núi. Đi từ núi [chính] ra biển ([tức sang các đảo khác]) ước trừng một vài ngày hoặc một vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi... Các đời chúa [Nguyễn] đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh, thay phiên nhau đi lấy hải vật. Hàng năm, cứ đến tháng 3, khi nhận được lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở 5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy ([tức Hoàng Sa])... Đến tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn (tức cửa Thuận An) đến thành Phú Xuân, đưa nộp."[11]
Năm 1686: (năm Chính Hòa thứ 7) Đỗ Bá Công biên soạn Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ Bản Đồ. Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng: "Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm… Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…", còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa.
Năm 1695: nhà sư Thích Đại Sán (1633 - 1704, hiệu Thạch Liêm, quê ở tỉnh Giang TâyTàu, đến Phú Xuân theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu) đã nhắc đến địa danh "Vạn lí Trường Sa" ngoài Biển Đông (ám chỉ quần đảo Hoàng Sa[12][13]) trong quyển 3 của tập sách Hải ngoại kỉ sự. Trích một đoạn sách do Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột (Viện đại học Huế - Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 1963) dịch: "Khách có người bảo: mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước sau tiết lập thu; chừng ấy, gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần nổi lên, nước chảy về hướng đông, sức gió nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy sẽ khó giữ được sự ổn tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ đông bắc qua tây nam; đống cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn lí Trường Sa, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; Nếu thuyền bị trái gió trái nước tất vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm hoạ Trường Sa."[13][14]
Năm 1698: Quần đảo trở nên nổi tiếng trong các biên niên sử hàng hải với vụ đắm tàu Amphitrite dưới thời vua Louis XIV trong khi đi từ Pháp sang Tàu.[15]
Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Tàu. Chính quyền Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính Việt Nam về. Lê Quý Đôn viết: "Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán...".[10][16]
Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình.[17]
Hai trang sách Đại Nam Thực lục Chính biên (大南實錄), bằng chữ Hán do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, viết về việc Nhà Nguyễn Việt Nam chính thức xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa với tư cách là một quốc gia, gồm: 01 trang ở Đệ nhất kỷ quyển 52 và 01 trang ở Đệ nhị kỷ quyển 122.
Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.
Năm 1847-1848: Quản lý hành chính các đảo được duy trì nhằm giúp đỡ các cuộc hải trình và cũng để thu thuế ngư dân trong vùng.[18](*)

Lịch sử TRƯỜNG SA

Sự thay đổi nhận thức về các đảo và quần đảo trên biển Đông của Phương Tây (châu Âu) từ thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 (1710-1794-1801-1826).
Bản sao bản đồ Biển Đông và vùng Đông Nam Á của Matteo Ricci, vẽ trong "Khôn dư vạn quốc toàn đồ" in tại Tàu năm 1602, về sau được người Nhật Bản ghi thêm dòng chú thích bằng chữ Hán "" (Vạn Lí Trường Sa).
Trên bản đồ thường ghi I de Pracell như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590), bản đồ Van Langren (1595)... Cho đến năm 1787-1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác định rõ vị trí của quần đảo Paracel (chính xác là quần đảo Hoàng Sa hiện nay) và từ đó người phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc với một quần đảo khác ở phía nam, tức quần đảo Trường Sa.[40]
Tên gọi
Sang thế kỷ 18thế kỷ 19 thì các nhà hàng hải châu Âu thỉnh thoảng đi ngang qua vùng Trường Sa. Đến năm 1791 thì Henry Spratly người Anh du hành qua quần đảo và đặt tên cho đá Vành Khăn là Mischief. Năm 1843 Richard Spratly đặt tên cho một số thực thể địa lý thuộc Trường Sa, trong đó có Spratly's Sandy Island cho đảo Trường Sa. Kể từ đó Spratly dần trở thành tên tiếng Anh của cả quần đảo.[41]
Đối với người Việt thì thời nhà Lê các hải đảo ngoài khơi phía đông được gọi chung là Đại Trường Sa đảo. Đến thời nhà Nguyễn triều vua Minh Mạng thì tên Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙) xuất hiện trong bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ của Phan Huy Chú. Bản đồ này đặt nhóm Vạn Lý Trường Sa ở phía nam nhóm Hoàng Sa (黄沙). Về mặt địa lý thì cả hai nhóm đều được khoanh lại thành một quần đảo lớn nằm dọc bờ biển miền trung nước Đại Nam.[42] (*)

HOÀNG SA – TRƯỜNG SA

Chủ quyền bất khả tranh cải của Việt Nam

SỰ THỰC VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA, TRƯỜNG SA

Như trên đã trình bày, Tàu khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 đã cho rằng Tây Sa là vô chủ. Năm 1898, chính quyền Quảng Châu, Tàu đã trả lời các khiếu nại của Công sứ Anh ở Bắc Kinh về việc những người Tàu ở Hải Nam cướp phá các tàu Bellona của Đức (bị đắm năm 1895) và tàu Humeji- Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) do Công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm, rằng: “quần đảo Tây Sa là những ḥòn đảo bị bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách nhiệm về cảnh sát của chúng”. [Monique Chemillier - Gendreau, sđd, p.158].
Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam, Trung Hoa hồi đó và Tàu bây giờ lại luôn luôn nói rằng Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa) đã thuộc về Tàu từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thì nói từ đời Minh, khi thì nói từ đời Tống. Sự thực thế nào?
Sự thực là quần đảo Hoàng Sa không hề là vô chủ như luận điểm của chính quyền Tàu năm 1909: Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời, từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930, mà đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư”, “Toản tập An Nam lộ” trong sách “Thiên hạ bản đồ”, trong Hồng Đức bản đồ năm 1686 và Phủ biên tạp lục năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong “Thiên Nam tứ Chí lộ đồ thư” hay “Toản tập An Nam lộ”, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở bãi Cát Vàng. Còn tư liệu trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải.
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- “Dư địa chí” trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt địa dư chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam thực lục phần Tiền biên, Quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); Đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); Đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí giá, là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc… Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản…
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai Suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật, người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhị kỷ, Quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Châu bản tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc“.
Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗi bài khắc những chữ: “Minh Mạng thập thất niên Bính Thân thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳng tư (tờ 25b)”.
(Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
Vì sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ(1851), Quyển 207, tờ 25b-26a và Quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá, cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…
Về những tư liệu của Tàu minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
- Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (người Tàu) năm 1696. Trong Quyển 3 của Hải ngoại kỷ sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Tàu do chính người Tàu vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Tàu.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Tàu từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Tàu do người Tàu vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Tàu.
Sau khi Tàu dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1/1974, nhiều đoàn khảo cổ Tàu đến các đảo thuộc quần đảo này và “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Tàu, trái lại họ lại phát hiện ở mặt Bắc ngôi miếu “Hoàng Sa tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée) bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
- Le Mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769 – 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.
- Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes của Giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
- An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh – Annam, ghi rõ «Paracels seu Cát Vàng» với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Tàu cho là ven bờ biển. («Seu» tiếng la tinh có nghĩa «hay là», Cát Vàng: chữ nôm, Hoàng Sa: chữ Hán).
- The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đã đăng bài của Giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels.
- The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels.
Về sau Trung Hoa đưa ra những bằng chứng ngụy tạo nói ngược lại luận điệu ban đầu xem là đất vô chủ (1909) mà cho rằng Tây Sa đã thuộc Tàu từ lâu. Ngay tên Tây Sa và Nam Sa cũng mới đặt từ sau năm 1907, và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung Sa, khi chỉ Nam Sa ở vị trí hiện nay (Spratleys).
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Khi bị Trung Hoa xâm phạm, vào thời điểm ban đầu, với tư cách là người đến xâm chiếm thuộc địa, người Pháp chưa hiểu hết lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam nên có lúc đã không lên tiếng bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, không lâu sau đó, chính quyền thực dân Pháp đã có đủ thông tin và thay đổi quan điểm, bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự thực là bất cứ chính quyền nào, kể cả chính quyền thuộc địa chịu trách nhiệm về quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Nguyên nhân chủ yếu khiến cho Tàu tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhất là từ thời chiến tranh lạnh và sau này và tham vọng bành trướng mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực.
Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”.
Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công. Đối với các nước Asean, trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối, đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Tàu núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quý giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Tàu, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Tàu”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Tàu.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 cũng như Tàu dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời, không có giá trị pháp lý. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mã thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại, hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lãnh thổ chiếm giữ bằng vũ lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử, nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tại Hoàng Sa và Trường Sa từ lúc chưa có ai tranh chấp, và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên hiệp quốc sau đó, cùng với Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Tàu phải thấy rõ sự thật lịch sử trên!
Việt Nam phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho cả thế giới được biết rằng vụ Tàu dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 là trái phép hoàn toàn, trái với Hiến chương và các nghị quyết của Liên hiệp quốc. Không thể để cho Tàu coi vụ chiếm đóng Hoàng Sa như đã xong. Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hại cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là phải quảng bá rộng rãi lịch sử về chủ quyền của nhà nước Việt Nam đới với Hoàng Sa và Trường Sa, và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
Cuộc đấu tranh đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như sự bảo toàn quần đảo Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thành công cũng như Việt Nam đã từng giành được độc lập tự chủ dù bị phong kiến phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm.

Hàn Nguyên Nguyễn Nhã


* Tiến sĩ Sử học, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”. Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến, đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công.

T.S. Nguyễn Nhã




TRƯỜNG CA HOÀNG SA TRƯỜNG SA

Tôi, cán bộ Hành chánh Quốc gia
Được huấn luyện và phục vụ
Suốt hai nền Cộng Hòa

Cho đến ngày mất nước đi tù Việt cộng
Là người làm việc Hành chánh
Biết rất rõ có ba Sắc lịnh -Nghị định
Do Chánh phủ VNCH ban hành

Qui định địa giới hành chánh
HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA

Là Lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa
Hoàng Sa nằm trên vỉ tuyến
Ngang với Tỉnh Quảng Nam

Nên thuộc địa phận Tỉnh nầy
Chịu trách nhiệm quản trị
Trường Sa cùng vỉ tuyến Tỉnh Bà Rịa
Địa giới và quản trị HC thuộc Tỉnh nầy

Sau cải tổ Hành chánh
Trường Sa là Đặc Khu HC thuộc Tỉnh Gia Định

Trên đây là thể chế Hành chánh

Sau đây việc thi hành

Hoàng Sa do một Đại Đội Địa
Phương Quân trấn giữ
Từg định kỳ viên chức Hành chánh
Thuộc hai Tỉnh kể trên

Vẫn tháp tùng tàu HQ vận lương
Ra thị sát việc Hành chánh và dân tình

HAI ĐẶC KHU HÀNH CHÁNH
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Có người bạn Hải quân kể cho nghe
Cảnh trí tuyệt đẹp trên hai Hải Đảo
Nhiều giống chim chóc lạ và đẹp

Bay lượn thong dong trên bầu trời Tự Do
Riêng tại Đảo lớn Hoàng Sa
Bãi phân chim rộng lớn và thật dày

Có thể lập nhà máy biến chế Phốt phát
Dân sở tại được thêm chút huê lợi
Việc Hành chánh, việc dân mới ổn định
Khinh tốc đỉnh Trung cộng đã ào tới
Ngày ngày biểu dương uy hiếp
Đại đội Địa Phương quân trú phòng
Bốn chiến hạm VNCH được phái tới
Tăng cường bảo vệ Hoàng Sa
Khinh tốc đỉnh Tàu cộng tối tân, hỏa lực mạnh
Đánh chìm ngay một chiến hạm ta
Hải quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà vị quốc vong thân
Binh sĩ thuộc quyền lớp tử vong, lớp bị bắt sống
Chánh phủ VNCH trong cơn bối rối
Liền phái ngay Ngoại trưởng Vương Văn Bắc
Sang Hoa Thạnh Đốn cầu viện
Chỉ nhủn nhặn cầu xin việc nhỏ xíu
Cấp cho ngay một phi đội phi cơ Phantom
Để Không Quân VN triệt hạ
Đám khinh tốc đỉnh phỉ Tàu
Câu phúc đáp thật là chua chát
Vũ khí, quân cụ được cấp cho đó
Là để chống Cộng sản Bắc Việt
Chớ đâu phải để chọc ghẹo NƯỚC LỚN TÀU
Thôi mau về tự lo liệu đi
Những ngày tù đày trên rừng núi Hoàng Liên
Những khi phẩn chí Hải quân Trung tá Phát (?)
Dùng tiếng Đức ngùng ngoằn kể
Đánh chác cái mẹ gì khi họ a tòng xếp đặt cả rồi
Đám Hải quân tụi tui bị bắt sống
Đem về ngay Thành Phố Thượng Hải
Cho tạm trú ngay Trường học sở tại
Sáng sớm phát mỗi đứa hai trăm NDT
Cho tự do ra ngoài phố cơm nước, tiêu xài
Chiều về, lục túi, tiền còn dư, lấy lại
Sáng mai lại phát hai trăm, xài tiếp
Cứ thong dong như vậy cho đến ngày
C130 Không lực Hoa Kỳ
Đáp xuống Thành Phố Thượng Hải
Rước “Quí vị Tù binh” về xứ
Chúc quí vị thượng lộ bình an
Sướng vậy, sao quan năm còn sạc tiếng Đức?
Là sĩ quan QLVNCH, biết rõ nước sắp mất rồi
Nhưng vì TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM
Biết đánh chác cái mẹ gì nhưng vẫn đánh, thế thôi
Cậu tôi là chiến sĩ Liên Tôn Phục Quốc
Ngày nay không còn nữa
Thưở sanh tiền thường dặn cháu:
“Mình là con dân đất nước,
Thấy “Việc Nghĩa” hết lòng làm
Nên hư, thành bại trời đất biết”
Ngày nay trước vận nước ngặt nghèo
Bên trong lũ quan lại VC hư hèn, nhu nhược
Bên ngoài Tàu phù lẫy lừng uy hiếp
Toàn dân khốn khổ biết tính lẽ nào?

Sách có chữ rằng:
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên
Nhưng lại cũng có câu rằng:
Tận nhân lực, tri thiên mạng

Nếu toàn dân đồng lòng, vùng lên lật đổ ách quỉ Cộng
Thành lập Chánh Phủ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA
Trên dưới cùng một lòng theo truyền thống DIÊN HỒNG
Ắt có câu trả lời khẳng định: Hoàng Sa Trường Sa là của ai?

HAI MÃNH VIỆT NAM TRÔI GIẠT
NỔI CHÌM TRÊN BIỂN ĐÔNG LÀ
LÃNH THỔ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Nguyễn Nhơn

­­­­­­­______________

Biển Đông 75
30/11/2017