Thursday, 22 December 2016

  Ðưa Em đi đào xác                                         

                                                                                                  Nhạc & Hòa âm: Ngô Ðình Thiện

Trở lại Trang Nhạc Việt


                      Trân trọng mời quý Bạn viếng thăm Web Biển Ðông, xin Click vào:
                                                  http://www.biendong75.net/    

Cách Download và in nhạc được rõ ràng, xin theo những bước sau:

  1. Click vào "Download nhạc phẩm "********"
  2. Saving vào Hard disk
  3. Mở file bằng program Adobe Photoshop hay bằng một program photo khác.
  4. Chọn "Print with Preview"
  5. Chọn "Scale to fit Media"
  6. Click vào "Page setup", rồi chọn "Landscape" cho Nhạc hay "Portrait" cho Hợp âm.
  7. Click Print
  8. Click OK

Wednesday, 7 December 2016

Bác và Ðảng của ông Du sinh



Biển Ðông 75 trân trọng giới thiệu bài viết này đến với Quí độc giả. Dù bài viết đã được phổ biến từ lâu, nhưng nhận thấy vẫn còn đầy đủ giá trị với thời gian; vì mới đây, không phải bài viết, mà là sự trình bày trên video từ trong nước – với nội dung cũng tương tự như bài viết của ông du sinh Nguyễn H., mà tác giả Lý Tuấn đã phân tích và phổ biến từ nhiều năm qua.

Trân trọng cảm ơn tác giả Lý Tuấn.
-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-
Trích từ sách: "Cờ Vàng - Cờ đỏ" 2 của tác giả Lý Tuấn

"Bác và Ðảng của ông Du sinh!"
Lý Tuấn

Trong tháng 3 này, trên các diễn đàn điện tử ở hải ngoại xuất hiện bài viết với tựa đề: “Thơ gởi “Người Việt Nam yêu nước  của một “du sinh” có gia đình “dính dáng nhiều đến chế độ CS, có hy sinh, mất mát và cũng được hưởng ân huệ của chế độ hiện nay”, thự danh là “Nguyễn H.”. Đọc bài viết thấy có nhiều điểm đáng quan tâm nên xin có ý kiến về bài viết này. 

   Đọc qua nội dung bài viết, phải nói là ông “du sinh” đã cho thấy khả năng của một người xuất thân từ lò huấn luyện tuyên truyền của “bác Hồ” mà ra. Thế nên, cái mục đích trước tiên trong bài viết chỉ là cách lập luận: Vừa bôi đen, vừa hạ thấp mọi giá trị thành công của người tị nạn cộng sản ở hải ngoại, nhưng lại kêu gọi đem tiền về nuôi “đảng” ẩn dưới nhóm chữ “dân giàu nước mạnh” – vì: “người Việt sinh sống ở hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam (phải hiểu là của đảng cộng sản)” – được nhấn mạnh trong “nghị quyết 7 khóa 9”; từ cửa miệng các chóp bu đỏ và nhan nhãn trên tất cả các hệ thống truyền thông của nhà cầm quyền Hà-nội; nhưng phải chấp nhận mọi sỉ nhục và, nếu, ai phản kháng thì bị coi là “chống cộng quá khích, cực đoan”; ở trong nước thì đi tù! 

   Ông “du sinh tên Nguyễn H.” viết như sau: 

   “Tôi đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu, từ những học thuyết kinh tế đến ý thức hệ. Cùng với những hiểu biết về Việt Nam mà tôi có, tôi đã rút ra một vài kết luận. Xin được chia xẻ dưới đây:
 
   “Trong lịch sử nước Việtnam, chúng ta chưa có lúc nào có dân chủ thực sự. Do vậy cả người lãnh đạo (từ trước đến nay) và dân chúng đều hiểu không cụ thể dân chủ là gì. Chính vì thế mà ít người coi trọng dân chủ chứ đừng nói là đấu tranh vì dân chủ.”  

   Quá khứ, hiện tại, tương lai là một chuỗi liên tục và thống nhất. Ông “du sinh Nguyễn H.” đã nhìn lịch sử bằng nhãn quang áp đặt của người cộng sản. Bôi đen và phủ nhận mọi giá trị quá khứ lịch sử để chỉ còn lại lịch sử của người cộng sản, dọn đường cho việc tuyên dương Hồ chí Minh và tuyên truyền cho lịch sử đảng cộng sản Việt Nam trong bài viết. Ông đã phạm lỗi lầm để đi đến quên rằng “các triều đại, các chế độ” chỉ là những phạm trù có tính cách thời gian nhất định của lịch sử rồi sẽ đi qua; chế độ cộng sản ở Việt Nam cũng không thoát ra khỏi phạm trù này. 

   Với dưới lăng kính của người cộng sản, ông “du sinh Nguyễn H.” đã thẳng thừng mạt sát tổ tiên, không chấp nhận rằng quốc gia nào cũng có từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử; kiến thức người dân cũng tăng tiến theo những thời kỳ, giai đoạn đó để có ngày nay. Chỉ cần lấy một thí dụ bình thường là nếu so kiến thức của chính ông với người dân ở vào giữa thế kỷ 20 thì sự khác biệt như thế nào? Đã thế, ông còn dùng nó làm đề tài ngụy biện bảo vệ sự thống trị đất nước của tập đoàn cầm quyền cộng sản Hà-nội – vì “dân chúng hiểu không cụ thể dân chủ là gì” – nếu theo quan điểm của ông thì nhân dân Việt Nam phải chịu số phận làm nô lệ cho đảng cộng sản đời đời kiếp kiếp; phản bác cuộc đấu tranh của tập thể tị nạn cộng sản với mớ lý luận mơ hồ nhưng cưỡng ép rằng: Chính vì thế ít người coi trọng dân chủ – chứ đừng nói là đấu tranh vì dân chủ. Như vậy, theo ý của ông “du sinh họ Nguyễn”: người tị nạn cộng sản nên làm con cừu ngoan ngoãn chấp nhận mọi quyết định của nhà cầm quyền Hà-nội, không được phản kháng, không được đấu tranh, vì toàn dân Việt Nam, đặc biệt là người tị nạn ở hải ngoại: có biết gì là dân chủ mà đấu tranh vì dân chủ!!!
 
   Tự khoe mình là người “nghiên cứu rất nhiều tài liệu, từ học thuyết kinh tế đến ý thức hệ”, ông “du sinh họ Nguyễn” có thấy và biết lý do nào mà khối cộng sản đã vứt “ý thức hệ cộng sản vào thùng rác lịch sử”? Ông nghĩ sao về cái “ý thức hệ cộng sản này vẫn còn nằm chình ình trong cái gọi là hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”? Còn về kinh tế Việt Nam, theo nhà nghiên cứu (kinh tế) “du sinh Nguyễn H.” thì dễ ợt, người tị nạn cộng sản chỉ cần đem thêm đô về nộp cho đảng là xong, vì số ngoại tệ khoảng 2-3 tỷ đô gửi về nước hàng năm, đối với đảng là số tiền quá ít không đủ để chia chác cho nhau!!!
 
   Khi đã viết: “Dân chúng hiểu không cụ thể dân chủ là gì”, thì người viết phải hiểu cái “chính quyền” đương đại có trách nhiệm và nghiêm túc thực hiện thực hành dân chủ, tức là có nhiệm vụ đề ra những chính sách bảo đảm việc mở rộng thông tin, tôn trọng mọi quyền tự do của người dân… tóm gọn lại là đường lối nhân đạo, thích hợp để hướng dẫn “người dân mở mang kiến thức để họ biết thế nào là dân chủ”; vì chỉ có con đường này dân tộc mới có khả năng tiếp cận với trào lưu thế giới, đất nước mới có cơ hội mở mang, thăng tiến. Nó đã được chứng minh, không cần nói xa, là nhìn vào các quốc gia vùng Đông-nam-á như Đại-hàn, Tân-gia-ba v.v… Đối lại, nhà cầm quyền Hà-nội vẫn khư khư ôm lấy cái ý thức hệ cộng sản mà thiên hạ đã liệng vào thùng rác và dùng bạo lực áp đặt nó lên đầu nhân dân Việt Nam, thì đến thế kỷ nào nhân dân Việt Nam mới biết dân chủ nếu không có cuộc đấu tranh loại trừ cộng sản đem lại dân chủ cho Việt Nam? Nhưng, ông “du sinh Nguyễn H.” chỉ với tầm mắt một chiều là nhắm vào nạn nhân! 

   Khi nói đến lịch sử, ông “du sinh họ Nguyễn” có thấy và nhớ đến biến cố lịch sử xảy ra trên nước Việt Nam mới đây không lâu, là cuộc thăm viếng Việt Nam, lúc còn tại chức, của cựu tổng thống Hoa-kỳ B. Clinton; thanh niên, học sinh, sinh viên Viêt Nam (ở Hà-nội) đã chào mừng và yêu cầu vị tổng thống này giúp họ thực hiện dân chủ cho Việt Nam. Có nghĩa là, thanh niên Việt Nam đã trưởng thành và ý thức được thế nào là dân chủ, nhưng ở trong tình trạng có nhiều nguy cơ đến sinh mạng, nhìn ra ngoài thì chỉ thấy nhà tù, nên họ phải có hành động chẳng đặng đừng đó. So sánh với họ, ông “du sinh họ Nguyễn” đã có hành động phỉ nhổ kiến thức về dân chủ của thế hệ trẻ ngày nay nói riêng, nói chung là của dân tộc Việt Nam! Nhưng giờ đây, ông vênh váo lên mặt thầy đời “dạy” tập thể tị nạn cộng sản ở hải ngoại phải làm thế này, thế kia v.v… 

   Đồng thời, xin nêu ra một chuyện nhỏ, rất nhỏ nhưng cả thế giới đều biết là bác-sĩ Phạm hồng Sơn, người đã dịch một bài Anh-ngữ “thế nào là dân chủ” ra tiếng Việt, ấy thế mà đảng của ông du sinh họ Nguyễn khép tội “gián điệp” và thưởng cho ông bác sĩ này chỉ có, à quên… hình như, 7 năm tù thêm 3 năm quản chế! Chỉ với vài sự kiện nêu trên đủ cho thấy ông “du sinh Nguyễn H.” đã thể hiện tư tưởng, không phải chỉ của riêng ông ta, mà phải nói là của cả nhà cầm quyền Hà-nội, không muốn có dân chủ ở Việt Nam để họ tiếp tục thống trị đất nước và dân tộc

   “Tôi nghĩ rằng phải Cộng Đồng người Việt ở hải ngoại phải biết thức thời, hãy đóng góp làm dân giàu nước mạnh rồi đồng thời tìm cách giáo dục cho CSVN thấy rằng đa đảng đa nguyên là điều tốt nhất cho đất nước. Giáo dục cho họ thấy rằng bỏ CS đi làm Việtnam có thêm bạn bớt thù. Cho rằng chế độ CS không còn phù hợp nữa vì nó chỉ kìm hãm sự phát triển của đất nước. Việtnam vẫn sẽ là Việtnam, mạnh hơn giàu hơn chứ không phải là bỏ CS rồi Việtnam sẽ rơi vào tay ngoại bang (vẫn còn người trong nước tin như vậy).”
 
   Đọc những lời trên, nếu không cẩn thận thì sẽ bị vướng vào bệnh “nở lỗ mũi” rồi quên hết mọi việc, để không nhận ra cái bẫy của ông “du sinh họ Nguyễn” cố tình đưa người tị nạn vào con đường hoang tưởng, sống với cái bánh vẽ hoang tưởng, như đảng của ông ta dùng bộ máy chuyên chính là công an, quân đội và tòa án tròng cái chủ nghĩa cộng sản không tưởng lên đầu nhân dân Việt Nam. Dù vậy, ta cũng thấy được cái ý định của ông “du sinh” này và cũng là của đảng cộng sản: đô-la phải đi trước mọi việc, sau đó mới tính đến những chuyện khác – đó là cách đánh phủ đầu cho con mồi bị nhừ đòn, hoa mắt rồi mới vỗ về bằng cách “ân cần” mời mọc: “… hãy đóng góp làm dân giàu nước mạnh…”
 
   Có khi nào ông “du sinh” làm bài tính nhẩm ra bao nhiêu tỷ đô mà người tị nạn đóng góp trong suốt gần ba thập niên qua? Xin thưa, cứ cho là con số nhỏ nhất, cũng phải ít ra là 50 tỷ đô. Số ngoại tệ đó được xử dụng vào việc ích nước lợi dân nào, xin ông “du sinh” cho biết? Hay hầu hết chui vào các chương mục của các quan lại đỏ, nên đảng của ông mới có nhiều triệu phú, một số tỷ phú… ông “du sinh” có thấy điều này không? Xin ông “du sinh” cho biết là người tị nạn ở hải ngoại phải “đóng góp thêm bao nhiêu tỷ đô nữa”? 

   Cái bánh vẽ hoang tưởng của ông “du sinh Nguyễn H.” nằm trong câu “… tìm cách giáo dục cho CSVN thấy rằng đa đảng đa nguyên là điều tốt nhất cho đất nước”, để người tị nạn cảm thấy mình được kính trọng vì cũng là “công dân của nước CHXHCN/VN”. Cái xảo thuật tuyên truyền mị dân, vơ đũa coi người tị nạn là công dân cộng sản, ông “du sinh họ Nguyễn” không ngại ngùng “dạy” người tị nạn phải làm đủ mọi thứ, nhưng lờ đi không đưa ra đường lối nào, biện pháp nào… để giáo dục đảng cộng sản, khiến người đọc phải phì cười và gọi là “hoang tưởng như chủ nghĩa cộng sản”. 

   “Tìm cách giáo dục đảng CSVN” nghe thật kêu đến khoái lỗ tai, và cứ tưởng như mình là ông thầy giáo trước đứa học trò cứng đầu. Nhưng chợt thấy nỗi buồn dâng lên vì nhận ra rằng người như ông “du sinh và gia đình” thuộc hạng có công, có hy sinh, mất mát và đang hưởng ân huệ của chế độ, nghĩa là có vai, có vế với chế độ nhưng không thèm “giáo dục” đảng mà lại xúi người tị nạn, tức là “ngụy, phản động”, thì làm sao “giáo dục được đảng cộng sản”! Thành ra, đây chỉ là đòn hư chiêu (không tưởng) lừa người tị nạn đem tiền về hợp tác mà tác dụng của nó là vừa làm giàu cho đảng, vừa dập tắt được cuộc đấu tranh.

   Một đề nghị với quý bạn đọc là hãy tưởng tượng, suy nghĩ tìm con đường nào hay nhất để tập thể tị nạn cộng sản chúng ta có thể thực hiện được việc: giáo dục đảng cộng sản để chúng thấy rằng đa đảng đa nguyên là điều tốt nhất cho đất nước. Hay, bằng cách “nộp thêm tiền của và làm tay sai cho chúng” như ý kiến của “du sinh họ Nguyễn”; hay đấu tranh?
 
   Thực ra, cuộc đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền… của tập thể tị nạn suốt gần ba thập niên mới chính là bài học: mở ra con đường để đảng cộng sản thấy đó là điều tốt nhất cho đất nước. Nếu chúng tiếp tục ù lỳ thì cái hậu quả không ai có thể lường trước được. Đây mới chính là điều ông “du sinh Nguyễn H.”, nếu thực tình vì sự tiến bộ, vì hạnh phúc, vì cơm no áo ấm… của người dân Việt Nam, đã đến lúc ông gióng lên tiếng chuông và đem nó về nước mà giáo dục đảng cộng sản!!!
 
   Cũng chính những cuộc đấu tranh có hiệu quả của chúng ta, chúng mới đẻ ra những loại lý luận ru ngủ như thế đó! 
   Đọc lại câu trên một lần nữa, sẽ thấy cách viết có vẻ “chống cộng sản nhưng thực tế thì lại sợ cộng sản mất quyền lãnh đạo” đất nước Việt Nam. Nó nằm trong đoạn: 

   “Giáo dục cho họ thấy rằng chế độ CS không còn phù hợp nữa vì nó chỉ kìm hãm phát triển của đất nước. Việt nam vẫn sẽ là Việt nam, mạnh hơn giàu hơn chứ không phải là bỏ cộng sản rồi Việtnam rơi vào tay ngoại bang (vẫn còn người trong nước tin như vậy)”. 

   Đoạn văn này mang tính hai mặt lừa người đọc… dẫn đến mơ hồ nếu người đọc không bình tĩnh thì sẽ không biết đâu là đúng, đâu là sai sẽ đi đến kết luận không sát với thực tế tình hình hiện nay. Cái hai mặt đó được chia làm hai vế trong câu văn như sau: 

   a- Đối với người không cộng sản (chưa cần nói đến những người chống cộng sản) đã thấy sự tàn ác, tồi tệ mọi mặt của chủ nghĩa cộng sản chứ không riêng về kinh tế từ khi cái chủ nghĩa này ra đời. Vậy thì cái vế thứ nhất: “Giáo dục cho họ thấy rằng chế độ cộng sản không còn phù hợp nữa vì nó chỉ kìm hãm phát triển đất nước”, có gì mới lạ? Ý nghĩa thực của câu này là gì? 

   Thực chất của câu này chỉ là sự bào chữa cho Hồ chí Minh và sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam là đúng, là đáp ứng mong muốn của toàn dân Việt Nam, có công đánh thực dân Pháp giành độc lập, được diễn tả khéo léo trong bài viết. Cũng trong bài viết, vì thời thế từ khi Hồ chí Minh và đảng cộng sản ra đời cho tới khi đảng “đổi mới, mở cửa” hoàn toàn khác nhau (lờ đi sự sụp đổ của CNCS). Sự khác biệt là tình thế ngày nay mọi quốc gia đều nằm trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Sự thay đổi này xảy ra quá đột ngột nên chúng chưa kịp trở tay để thích ứng với tình thế mới; vì, nếu không có toàn cầu hóa kinh tế thì Việt Nam vẫn “đẹp như mơ” dưới chế độ cộng sản. Như vậy, tình trạng tồi tệ ở Việt Nam hiện nay là không do lỗi của đảng cộng sản Việt Nam, mà do lỗi ngoại cảnh khách quan gây ra. Và, điểm đặc biết nhất, nếu người tị nạn cộng sản không muốn thấy chế độ cộng sản ở Việt Nam; muốn đất nước tốt hơn thì phải đem thêm tiền về “nộp cho đảng” để đảng “bỏ” cộng sản, nhưng vẫn phải chấp nhận đảng lãnh đạo dù dưới hình thức khác. Từ vận hành này, xin quý vị độc giả đi vào điểm “b”; 

   b- Khi đọc câu: “Việtnam vẫn sẽ là Việtnam, mạnh hơn giàu hơn chứ không phải bỏ cộng sản rồi Việtnam rơi vào tay ngoại bang (vẫn còn người trong nước tin như vậy) – ta có thắc mắc và nghĩ là tại sao lại có câu viết mập mờ tối nghĩa như vậy? 

   Mới đọc thì thấy ngay hình bóng là đảng cộng sản Việt Nam muốn bỏ chủ nghĩa cộng sản, nhưng câu thòng – vẫn còn người trong nước tin như vậy – mới là điểm chính, vì chúng muốn chúng ta có ấn tượng, hoặc lờ mờ hiểu rằng chúng đang có khó khăn vì còn những “phần tử cực đoan trong đảng” chống đối, có nghĩa là dấu đi cái sự “nhất trí” ôm chủ nghĩa xã hội để tiến lên chủ nghĩa cộng sản… Thực ra, chẳng có cái chủ nghĩa nào hết, đó chỉ là cách tung hứng chữ nghĩa để lừa người tị nạn, không ngoài việc giữ cho bằng được quyền thống trị đất nước, nếu một mai tình thế bắt buộc chúng phải thay đổi. Trong hiện tại, chưa đến nỗi nguy hiểm, thì đây là phương cách vuốt ve moi tiền người tị nạn. 

   Câu này cũng còn có nghĩa là “đảng cộng sản cũng yêu nước, cũng bảo vệ đất nước chứ không có bán nước” nên mới có cụm chữ “(sợ) rồi Việt Nam rơi vào tay ngoại bang”, mang sự phân bua là từ xưa đến nay đảng cộng sản không hề bán nước, cũng yêu nước và bảo vệ đất nước như người tị nạn, như chế độ Việt Nam Cộng Hòa! Xóa nhòa đi cái tội xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa; cái tội dâng đất, nhượng biển và các hải đảo cho quan thầy Tàu cộng v.v… Và, nếu thay thế hoàn toàn chế độ cộng sản, đảng (vẫn còn người trong nước tin như vậy) lo sợ Việt Nam sẽ rơi vào tay ngoại bang; cái thâm ý đích thực của nó là: “Việt Nam sẽ không rơi vào tay ngoại bang nếu đảng vẫn lãnh đạo” (!)một cách chơi chữ hù dọa, biện luận cho lý do độc quyền thống trị đất nước hôm nay và cả tương lai – Đây mới là thực chất của vấn đề lừa mà câu thòng nằm trong hai cái dấu ngoặc che cái lừa đó. Còn những tồi tệ, giết dân, bán nước, xin người tị nạn thông cảm, vì những thứ đó không do Hồ chí Minh và đảng mà do tình hình thế giới, do bọn cực đoan trong đảng gây ra mà thôi. Một cách chạy tội và xác định đất nước Việt Nam là của riêng của đảng cộng sản!!!

   “Hình tượng Hồ chí Minh vẫn “thiêng liêng” ở rất nhiều người Việtnam. Cộng Đồng VN hải ngoại cần phải hết sức khôn khéo trong chuyện này. Tôi thì không thích Hồ chí Minh gì nhưng vẫn phục. Ông ta là một người tin vào điều mình làm là đúng và đấu tranh cho đến cùng lý tưởng đó. Đây cũng là một điều đáng kính trọng. HCM đã làm được điều lớn, như sáng lập ra Đảng CS Pháp (lúc đó nhiều dân đen Việtnam còn chưa biết chữ nữa) và lập nên Việt minh đánh thực dân Pháp. HCM chỉ phạm sai lầm khi quyết định theo đường lối cộng sản từ năm 1954.”
 
   Như đã trình bày ở phần trên về những – trí thức, kiến thức, nghiên cứu đủ mọi thứ chuyện – của ông “du sinh Nguyễn H.”; thì tới đoạn trích nêu trên, ông “du sinh” này mới cho thấy sự “bóp méo lịch sử” của ông ta. Cái bóp méo đó là dấu diếm quá trình sai lầm của “Hồ chí Minh từ khi gia nhập cộng sản sau khi đến Pháp năm 1911. Hồ chí Minh đã tự nguyện làm tay sai cho đế quốc đỏ Nga-xô cộng sản với cái tên Line, trở thành một cán bộ Cục Phương đông, một gián điệp lãnh lương của quốc tế 3 cộng sản… chứ không phải sai lầm từ 1954!” Đã thế, ông “du sinh” còn bốc thơm Hồ chí Minh tới đỉnh mây xanh rằng “Hồ chí Minh đã làm được điều lớn, như sáng lập ra đảng cộng sản Pháp…” tức là một người với tầm vóc cực lớn của quốc tế cộng sản, là vĩ nhân; ông “du sinh họ Nguyễn” quên rằng các thư viện của nước Pháp vẫn còn đầy đủ những hồ sơ về sự ra đời của đảng cộng sản Pháp! Về điều này, ông “du sinh” lòi ra điễm mâu thuẫn thành người đọc nhận ra được cái sai cố ý và đưa ra câu hỏi là: Hồ chí Minh lập ra đảng cộng sản Pháp năm nào (?) – mà ông lại nói chắc như đinh đóng cột là “bác Hồ” chỉ quyết định theo đường lối cộng sản từ năm 1954?” 

   Việc ông “du sinh họ Nguyễn” thích hay không thích, phục hay không phục Hồ chí Minh, đó là quyền tự do của ông; đối với người tị nạn thì quyền tự do “thích, ghét, phục” của mỗi cá nhân đều được tôn trọng. Nhưng ông “du sinh” lại đem cái không thích, phục… của mình làm nội dung trọng yếu trong bài viết chính trị “dạy khôn” tập thể người tị nạn, không ngoài mục đích dùng nó làm bối cảnh tuyên truyền đánh bóng cho Hồ chí Minh, hợp với ý đảng cộng sản là muốn cộng đồng tị nạn phải tôn thờ “con yêu râu xanh” này. Đó là cốt lõi của “không thích nhưng vẫn phục”, vì “cái phục đánh bạt cái thích”, vì đây là chính trị, vì Hồ chí Minh là thần hộ mạng cho việc nắm quyền của tập đoàn cộng sản Hà-nội. Cách thức này là chiến thuật “tằm ăn dâu” để từ từ thẩm thấu vào tư tưởng người tị nạn, để trở thành thói quen và rồi chấp nhận Hồ chí Minh cũng là thần tượng của mình dù không thích nhưng vẫn phục như ông “du sinh Nguyễn H.”! 

   Sau cái “phục đá bay cái thích”, ông “du sinh Nguyễn H.” ca ngợi Hồ chí Minh rằng: “Ông ta là một người tin vào điều mình làm là đúng và đấu tranh cho đến cùng lý tưởng đó”. Hay lắm với những ngôn ngữ êm dịu để nói lên niềm tin và lý tưởng của Hồ chí Minh. Cứ tạm như thế đi. Bởi vì, nếu có phản bác ý kiến đó để nói rằng “niềm tin và lý tưởng của Hồ chí Minh là dùng xương máu nhân dân Việt Nam, đưa vào cuộc chiến tranh vũ trang mở rộng thuộc địa cho đế quốc đỏ Nga-xô”, ông “du sinh” sẽ buồn lòng và nhảy dựng lên hô to rằng người tị nạn lúc nào cũng nói xấu “bác Hồ” của ông. Tuy nhiên, xin trình bày ra đây ý kiến để quý độc giả so sánh: 

   “Hồ chí Minh tin vào điều mình làm là đúng và đấu tranh cho đến cùng với lý tưởng đó.”
 
   Ba triệu người tị nạn cộng sản ở hải ngoại cũng: 

   Tin vào điều mình làm là đúng (xin nhấn mạnh: ba triệu người), sẽ đấu tranh đến cùng cho đến ngày chủ nghĩa cộng sản, tư tưởng Hồ chí Minh và chế độ phi nhân của nó phải bị loại khỏi Việt Nam. Đó là lý tưởng và niềm tin không phải của riêng người tị nạn cộng sản, mà phải nói là của dân tộc Việt Nam!

   Đối với người cộng sản thì Hồ chí Minh là hình tượng “thiêng liêng”; đối với dân tộc Việt Nam thì Hồ chí Minh chẳng có gì “thiêng liêng” mà chỉ là hiện thân Lê chiêu Thống của thế kỷ 20, người tị nạn cộng sản chẳng cần phải “khôn khéo” và bận tâm cho mất thì giờ. Xin đừng áp đặt cái hình tượng Hồ chí Minh của các ông lên đầu nhân dân Việt Nam. Nếu ông “du sinh” không đồng ý thì nên về Việt Nam hỏi Kim Hạnh vì sao mất chức tổng biên tập tờ Tuổi trẻ cách đây vài năm, như là một thí dụ điển hình.

   “Dùng hình bóng chống Cộng của Việtnam Cộng Hòa (VNCH) sẽ làm cho rất nhiều người dị ứng. Thứ nhất là các chính phủ dưới thời VNCH cũng không phải là các chính phủ thực tốt. Cũng tham nhũng, buôn lậu, ma túy đủ thứ (tôi đọc những tài liệu này không phải từ phía cộng sản mà từ báo chí, sách vở ở hải ngoại). Trong thời gian này việc này hầu như không xảy ra ở ngoài Bắc. Thứ hai là, VNCH không làm cho dân hiểu được thực sự ý nghĩa cuộc chiến tranh này là gì. Một sai lầm về việc tuyên truyền ý thức hệ. Điều đó làm cho nhiều người dân của miền Nam không thiết tha với việc bảo vệ đất nước chống lại cộng sản. Người nào giàu thì bỏ tiền khỏi phải đi lính, người nghèo thì bị bắt đi lính nhưng trong lòng chửi rủa số phận sui xẻo. Điều này không xảy ra ở ngoài Bắc lúc đó.”
 
   Nếu không có cuộc xâm lược bằng quân sự của Hồ chí Minh và đảng cộng sản, miền Nam Việt Nam đã không có chính phủ “tham nhũng, buôn lậu, ma túy đủ thứ…” như ông nêu ra. Giả dụ rằng các loại chính phủ xấu đó xuất hiện ở miền Nam chúng tôi trong hòa bình, thì với thể chế dân chủ tự do, người dân miền Nam vẫn có thể giải quyết bằng cách lật đổ cái chính phủ bê bối đó trong tình trạng ôn hòa bằng lá phiếu của mình (xin nhớ rằng: bầu cử ở miền Nam không phải kiểu “đảng cử, dân bầu” như ở miền Bắc). Thế thì cái “chính phủ” tồi tệ gấp ngàn lần hiện nay ở Việt Nam – người dân Việt Nam phải dùng biện pháp hòa bình nào để thay thế? Chúng tôi muốn biết cao kiến của ông “du sinh Nguyễn H.”!!! 

   Một vấn đề khác xin đưa ra đây là tại sao ông “du sinh Nguyễn H.” đòi bỏ “hình bóng Việt Nam Cộng Hòa” và hình tượng “Quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ” của chúng ta”? Xin tóm gọn với hai ý kiến: 

   1) Nước Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia hợp pháp được quốc tế công nhận, cũng chính Hồ chí Minh đã ký công nhận trong hiệp định đình chiến ở Genève năm 1954. Rồi cũng chính Hồ chí Minh và đảng cộng sản xâm lược nước VNCH bằng quân sự theo tiến trình mở rộng thuộc địa cho đế quốc đỏ Nga-xô. Nếu đồng tình theo lập luận của ông “du sinh”, có nghĩa là người tị nạn hợp pháp hóa cuộc xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ chí Minh và đảng cộng sản “là chính nghĩa”; cuộc đấu tranh hiện nay của người tị nạn sẽ trở thành vô nghĩa vì không có chính nghĩa

   2) Chấp nhận ý kiến của ông “du sinh họ Nguyễn” là tự nguyện chặt một cánh tay mình, cuộc đấu tranh của chúng ta sẽ tự nhiên sụp đổ. Lúc đó, người tị nạn cộng sản tự biến mình thành công dân của nước CHXHCN/VN, phải chấp nhận “hình tượng Hồ chí Minh và cờ đỏ sao vàng” – là chuẩn nhận câu nói: “Tôi không thích Hồ chí Minh gì mấy nhưng vẫn phục” là đúng, là chân lý! 

   Không cần phải giải thích dài giòng, chúng ta cũng thừa hiều thành phần nào ở trong nước, kể cả ở hải ngoại dị ứng “hình bóng chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa và hình tượng Quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ”!!! 

   “Nhiều người dân (đặc biệt là người miền Bắc) không muốn chế độ VNCH, cùng với lá cờ vàng ba sọc đỏ, quay lại nắm chính quyền, cho dù chế độ CS ở Việt Nam có bị loại bỏ đi chăng nữa. Xin được nhắc lại những người có tâm huyết chống đối chế độ CS mới bị tù đày hay kềm kẹp này đều là những kẻ sỹ phu Bắc Hà (Lê chí Quang, Phạm hồng Sơn, Trần Độ, Nguyễn khắc Toàn) chứ không thấy ai có dính dáng đến chế độ VNCH cả. Tôi nghĩ là cần phải có sự thay đổi về mặt hình tượng, tư tưởng để tất cả người dân trong nước cảm thấy mình đấu tranh cho một cái gì đó đẹp hơn, mới hơn, thay vì là một hình tượng của một chế độ thua trận từ cách đây 30 năm.”
 
   Suốt 30 năm qua, chưa có bất cứ cá nhân nào trong thể chế VNCH tuyên bố những người đấu tranh cho dân chủ ở trong nước có dính dáng đến chế độ VNCH. Nhưng phải nói là cuộc đấu tranh của người tị nạn đã trở thành bức tường dựa cho những người yêu nước đó. Những người trẻ trí thức đó quả thực là người Việt Nam chân chính, đúng là sỹ phu Bắc Hà, và thực tâm đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ tự do (ngoại trừ Trần Độ) nên đã bị đảng cộng sản của ông đàn áp, bỏ tù. Người tị nạn đã tự nguyện ủng hộ và đấu tranh cho sự an toàn của những người trẻ đó! Thế còn ông “trí thức du sinh trẻ tên Nguyễn H.” làm cái gì và có lời gì thực tế để tiếp sức, ủng hộ và giữ mạng sống cho những người sỹ phu chân chính đó? Không thấy ông có lời nào hết… ngoài việc “vơ của người làm của mình như “bác Hồ” lập ra đảng cộng sản Pháp và là chủ biên quyển Nhật ký trong tù”; hãnh diện nhập nhằng “ăn có” làm như mình cũng thuộc nhóm “sỹ phu Bắc Hà”. Xin được tỏ lòng lo lắng cho sinh mạng của những người bạn sỹ phu Bắc Hà đang bị tù! 

   Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản cho thấy những quốc kỳ cũ của những quốc gia Đông-âu, kể cả Nga-xô đã bị “cờ đỏ” vùi dập đến 70 năm, đã hồi sinh với sự vui mừng của nhân dân ở những quốc gia đó. Riêng về nước Đức, sự thống nhất nước này dưới lá quốc kỳ Tây Đức, cũng đem lại vui mừng cho nhân dân Đông Đức… Thế còn Việt Nam?

   Sau 30-4-1975, một làn sóng từ chóp bu cao nhất của đảng cộng sản đến người dân ào ào “di cư” từ miền Bắc vào miền Nam. Riêng về dân chúng miền Bắc, đối với người miền Nam thì không có thắc mắc gì hết vì luôn nhớ câu nói của các cụ ta là “cây lành chim đậu” và họ là người dân Việt Nam. Xin ông “du sinh” cho biết là có bao nhiêu người dân miền Nam đã ào ào dọn nhà cửa ra đất Bắc để sống dưới thiên đường cộng sản không có tham nhũng, buôn lậu, ma túy đủ thứ… như ông đã khoe? Còn các quan lại đỏ? Xin ông “du sinh” cho ý kiến! 

   Sau những lý luận bảo đảm cho sự thống trị đất nước của đảng cộng sản nếu bị bắt buộc phải thay đổi, ông “du sinh” bắt đầu thủ diễn vai trò nhà thuyết khách cho có vẻ khách quan của người yêu nước, với vai trò đứng giữa “hòa giải” để đi đến “hòa hợp” giữa trong và ngoài nước và phải đặt dưới sự thống trị của đảng cộng sản (điều này ông “du sinh” không dám thẳng thắn nói ra). Để vai trò thành công hơn, ông “du sinh” trách đảng bằng cách nêu lên mặt tiêu cực của xã hội như phụ nữ Việt Nam bị “mua” để làm vợ Đài-loan, làm gái giang hồ v.v… (để đánh đòn tâm lý và làm người tị nạn tin tưởng ông ta hơn vì hiện nay vấn đề này đang sôi nổi ở hải ngoại), rồi nêu quan điểm về đảng cộng sản: 

   “Dựa trên quan điểm lịch sử, tôi hoàn toàn chính xác khi cho rằng thời kỳ Đảng CS lãnh đạo là một trong những thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam

    Tiếc rằng ông “du sinh” không cụ thể đưa ra cốt lõi của vấn đề sau khi bôi đen, phản bác lịch sử đất nước để chỉ còn công trạng của Hồ chí Minh và đảng cộng sản. Cứ tạm coi như ông “du sinh” đã có nhận định của một người thức thời nhưng lại không có hành động thực tế để tiếp tay những người đấu tranh để loại bỏ cái đảng đã đưa đất nước vào đen tối nhất lịch sử; thành ra đây chỉ là hoạt cảnh của một vở tuồng mà diễn viên “du sinh Nguyễn H.” trình diễn bằng cách nâng niu con gà và giới thiệu với khán giả người tị nạn cộng sản ở hải ngoại rằng: “Thưa quí vị, con gà (đảng cs) này mới lớn nên gáy chưa hay, chờ được tẩm nghệ đô-la từ hải ngoại, nó sẽ gáy hay hơn!” Nói giản dị hơn, ông “du sinh” ca ngợi “bác và đảng cộng sản” = 10; phê bình lơ phơ, lất phất = 1. 

   Nói tóm lại, tất cả những mặt tiêu cực, những trách cứ… đảng, chỉ là hình thức tuyên truyền cho phù hợp với tình thế và phải có lợi cho đảng cộng sản thì mới được phép phổ biến. Vì từ xưa cho tới nay, chưa có ai chứng minh được đảng cộng sản nói thật, dù chỉ một lần! 

   Trước khi chấm dứt bài viết này, xin trích câu: “Tôi xin dành những lời cuối cùng cho Đảng CSVN, lời nói của một người yêu nước chân chính” của ông “du sinh”; người viết bài này thấy còn thiếu… chưa đủ ý nghĩa, xin ông “du sinh Nguyễn H.” cho phép viết thêm vào vài chữ nữa thì câu viết của ông mới rõ nghĩa hơn, giá trị hơn, người tị nạn cộng sản ở hải ngoại sẽ có cảm tình hơn, như sau: 

   “Tôi xin dành những lời cuối cùng cho Đảng CSVN, lời nói của một người yêu nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chân chính!”
----------------- 
Biển Ðông75
Trích từ sách "Cờ Vàng - Cờ đỏ" 2 của tác giả Lý Tuấn
8.12.2016

Tuesday, 22 November 2016

XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG...



ChinhNghia] Fw: [trunghoclongthanh] Fw: XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG HAY LÀ BUÔN N
To
Today at 10:13
 
On Monday, November 21, 2016 11:40 PM, 'Them Nguyen' via Trung Học Long Thành wrote:
On Monday, November 21, 2016 7:38 AM, Huong Bui wrote:


Subject:  
VIỆT NAM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG HAY LÀ BUÔN NÔ LỆ?
 
MỜI BÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐỌC BÀI NẦY: NGƯỜI VIỆT BỊ ĐẢNG CSVN BÓC LỘT VÀ LÀM NHỤC NHƯ THẾ NÀO DƯỚI HÌNH THỨC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG !!!!

Những giọt nước mắt rơi trên nỗi đau người đi làm nô lệ


Những công nhân Xuất Khẩu Lao Động sang Malaysia làm việc, họ bị lực lượng bảo vệ, tịch thu hết giấy tờ tùy thân, sống lang thang đầu đường xó chợ, không tiền mua vé máy bay hồi hương, một số người bị cảnh sát Malaysia bắt giam như một tội phạm, một số phụ nữ phải sa chân vào chốn lầu xanh rẻ tiền để sống lây lất qua ngày trên xứ người, nên có một số chị em vướng phải bệnh AIDS chết bỏ thay nơi xứ lạ quê người đã nói lên thảm cảnh địa ngục trần gian, tủi nhục và phẫn hận của người công nhân XKLĐ Việt Nam, thân phận của họ không khác gì thân phận của người Phi Châu bị bán làm nô lệ ở Tân Thế Giới vào thời xa xưa...

   ... Hình thức buôn nô lệ vào Thế kỷ 21 vẫn còn tồn tại ở nước Việt Nam Cộng Sản dưới hình thức buôn nô lệ kiểu mới, thủ đoạn bóc lột sức người lao động nghèo tinh vi hơn, tàn nhẫn hơn, Đảng Cộng Sản Việt Nam gọi đó là “xuất khẩu lao động”. Con người được xuất khẩu ra nước ngoài làm nô lệ không cần phải đông lạnh như con tôm, con cá. Xuất khẩu lao động được ĐCSVN xem là một quốc sách, một “cơ hội vàng” để tập đoàn Mafia CSVN vắt cạn kiệt sinh lực đất nước còn dã man và tàn nhẫn hơn cả vua Bỉ King Leopold II & tập đoàn gia đình trị Mobutu Sese Seko.

       Ngày 6/12/2012, dưới sự chủ trì của Phó chủ tịch Hoàng Ngọc Thanh - Tổng Liên đoàn Lao Động VN (TLĐLĐVN) - tổ chức Hội Nghị Tổng kết 4 năm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục... Mục tiêu của “Đề án 3” do chính phủ giao cho TLĐLĐVN là đến hết năm 2012, phải phấn đấu đạt chỉ tiêu 70% tức 4 triệu công nhân xuất khẩu lao động.

       Theo báo cáo của Tổ chức Walk Free Foundation, “The Global Slavery Index 2013” thì  Việt Nam có 248.705 người VN được xem là nô lệ. Tổ chức WFF hy vọng việc công bố bản báo cáo nầy sẽ giúp các nước nghèo theo dõi và giải quyết nạn nô lệ thời hiện đại mà tổ chức nầy gọi là một “Tội ác được bao che”. Nô lệ thời hiện đại là hình thức nô lệ kiểu xa xưa, cộng với những thảm cảnh lao động khổ sai để trừ nợ, ép buộc những cuộc hôn nhân, buôn bán trẻ em, buôn người và lao động cưỡng bách.

      Theo RFA đưa tin ngày 1/11/2013, tổng số người lao động VN được xuất khẩu đi làm nô lệ ở nước ngoài trong 10 tháng đầu năm 2013 là 70.200 người. Như vậy, con số trên đã gần đạt ngưỡng 80.000 như mục tiêu do ĐCSVN đặt ra. Chỉ riêng trong tháng 10 đã có gần 7.500 lao động được xuất khẩu.

Trong năm 2012, VN đã gởi đi tổng cộng xuất khẩu khoảng 80.000 lao động làm việc tại các thị trường Á châu  như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia chiếm đến 70%. Theo Cục Quản lý Lao động nước ngoài, hiện tại có tới 4.500.000người VN bị xuất khẩu đang làm nô lệ ở 100 quốc gia khác nhau. Ngược lại, có khoảng trên 1.000.000 công nhân Tàu khựa sang VN làm lao động chui...

ĐCSVN rất phấn khởi vào WTO, xem như cơ hội bằng vàng cho XKLĐ ồ ạt ra nước ngoài làm nô lệ để kiếm ngoại tệ. Năm 2004, các doanh nghiệp đã xuất khẩu được 67.000 lao động (vượt chỉ tiêu 7.000 người), hàng năm con số tăng dần đến mức độ chóng mặt là 4.500.000 có mặt trên 100 quốc gia khác nhau.

     Đối với ĐCSVN, việc xuất khẩu lao động là một hình thức kinh doanh “không cần vốn”, một dịch vụ vô cùng béo bở nên Đảng và Nhà nước CSVN quyết liệt  bám  chặt  lấy  để khai thác và bóc lột xương máu mồ hôi và nước mắt của giai cấp công, nông dân Việt Nam trên địa bàn toàn quốc một cách khốc liệt. Thủ đoạn gian ác của bọn đầu gấu lãnh đạo ĐCSVN còn xảo quyệt và tinh vi hơn gắp mấy lần Vua Bỉ Leopold II và bạo chúa Mobutu. Xương máu của người nghèo khổ VN đang bị vắt cạn kiệt dưới ba tầng áp bức và bóc lột dưới chế độ CSVN.

     Bởi chế độ độc tài toàn trị bất lực vì quốc nạn tham nhũng hết thuốc chữa, không còn khả năng lãnh đạo trong việc quản trị đất nước, không tạo nỗi công ăn việc làm cho người dân trong nước, nên người nghèo nào cũng muốn bán sức lao động làm việc cho các công ty hãng xưởng nước ngoài và đều phải miễn cưởng chịu chi một khoảng tiền hối lộ cho các cơ quan chính quyền liên hệ và bọn môi giới, bọn cò mồi mới giành được một chỗ bán thân, tình nguyện đi làm nô lệ xứ người.

Cục Quản lý Lao Động với nước ngoài trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội chuyên  lo  dịch vụ XKLĐ. Ngoài  ra, một nghiệp vụ XKLĐ của QĐNDVN cũng rất quan trọng, nó trực thuộc Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc Phòng. Bạo quyền CSVN là bọn “ngồi mát ăn bát vàng” vừa ăn hối lộ, vừa thâu lợi nhuận từ các hợp đồng XKLĐ với các đối tác nước ngoài, vừa ăn chận đô la của người XKLĐ từ nước ngoài gởi về.

      Các công ty nước ngoài thuê mướn XKLĐ phải trả 40% cho nhà nước CSVN và 10% cho công ty môi giới. Thí dụ: Mức lương của một người XKLĐ tại Hàn Quốc là 600 USD/tháng. Sau khi trừ hết chi phí, phần còn lại là 300 USD. Trung bình một người công nhân lao động muốn bán thân làm nô lệ cho các công ty nước ngoài, họ phải làm việc ít nhất 2 năm mới trả hết số nợ vay lúc ban đầu, năm thứ ba mới có lợi nhuận thì hợp đồng sắp hết hạn.

Hiện nay, Đảng & Nhà nước CSVN mở hết công suất hệ thống tuyên truyền, cơ quan tín dụng khuyến khích và động viên công nhân & nông dân nghèo vay tiền để làm thủ tục đi XKLĐ, làm bùng lên phong trào cực kỳ quy mô, săn lùng người lao động trong tình trạng thất nghiệp, không có công ăn việc làm, còn nông dân bị bọn cường hào ác bá địa phương cướp hết điền sản nên không còn đất cày. Chiến dịch săn lùng XKLĐ được phát triển rầm rộ như hiện nay, còn hơn cả thời bọn thực dân Tây Ban Nha săn đuổi người nô lệ da đen vào thế kỷ 15 & 16 để bán qua Tân Thế Giới.

Tính đến cuối năm 2012, trên toàn quốc đã thành lập “40 Tổ Tư vấn Pháp Luật”, có “154 doanh nghiệp” nhà nước chuyên làm dịch vụ XKLĐ và mạng lưới có trên“1.000 chi nhánh” hoạt động trên 45 tỉnh, thành phố... kinh doanh trên xương máu, mồ hôi và nước mắt của những người cùng khổ một cách tàn nhẫn.

Trong 4 năm qua (2009-2012), Tổng LĐLĐVN hỗ trợ kinh phí thành lập 40 tổ Tư vấn Pháp luật tại một số địa phương có đông công nhân lao động nghèo, sống trong các khu công nhân, khu cư xá ổ chuột... các tổ tư vấn lao động này phối hợp với công nhân tự quản khu nhà trọ để tuyên truyền pháp luật và quyền lợi cho công nhân vào giờ tan ca, giờ nghỉ trưa hoặc tại khu nhà trọ... điều quan trọng là cán bộ tư vấn pháp luật, vận động chủ nhân các hãng xưởng, cho họ tiếp xúc với giới công nhân lao động ngay tại cơ sở sản xuất. Qua đó, lựa chọn thời điểm thích hợp để tập hợp các công nhân lao động để giải thích chính sách XKLĐ của Nhà nước và giải đáp những thắc mắc nếu có.

         Một trong những hoạt động tuyên truyền phổ biến của Tổng LĐLĐVN là hướng dẫn thành lập các tổ “công nhân tự quản”. Tính đến năm 2012, theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có trên 3.000 tổ công nhân tự quản đang hoạt động. Riêng tại Sài Gòn có trên 2.400 tổ. Thông qua các tổ công nhân tự quản, khu nhà trọ, phối hợp với công an khu vực, các ngành nghề tổ chức, các hoạt động tuyên truyền pháp luật cho công nhân XKLĐ tại các địa phương có đông công nhân lao động.

Công nhân XKLĐ đi làm nô lệ xứ người bị ngược đãi tàn tệ:

Chính những người XKLĐ này là nhân chứng, chứng kiến cảnh bị đày ải như nô lệ của nhau và đã được bày tỏ để cảnh báo những người nào muốn bán thân đi làm nô lệ xứ người. Sau đây chỉ là những trường hợp điển hình:

Nam Hàn:

Các công ty Nam Hàn chỉ sử dụng công dân VN vào các ngành hóa chất độc hại để bảo vệ sức khỏe cho công nhân bản xứ. Ngành công nghiệp đó gọi là 3D:“Difficult - Dirty - Dangerous” (khó khăn- dơ bẩn - nguy hiểm). Cực nhọc và nhục nhã nhất là làm phu trên các tàu đánh cá của họ. Họ phải làm quần quật liên tục từ 24 tới 36 tiếng và chỉ nghỉ được 4 tới 5 tiếng. Nếu làm việc liên tục 48 tiếng thì được nghỉ 6 tiếng. Khủng khiếp nhất là làm việc từ 13 tới 16 tiếng liên tục trong các hầm nước đá lạnh dưới -60 độ âm. Có người chịu không nổi phải sặc máu mũi, máu họng trào ra tại hầm nước đá. Ngoài ra, các tên “cọp rằn” dữ dằn như cọp, lúc nào cũng lăm le gậy sắt, sẵn sàng đập, quất vào những người nô lệ Việt Nam không thương xót.

Chắc hẳn chúng ta chưa quên vụ chủ hảng may “Darwoosa” của Đại Hàn trên đảo Samoa trước đây đã bị chánh phủ Hoa Kỳ bỏ tù vì quịt lương của 250 thợ VN và đánh đập, giam giữ trái phép, bớt khẩu phần ăn và chỗ ở cho công nhân VN theo tiêu chuẩn súc vật.

Mã Lai:

Vô địch man rợ nhất, có lẽ thuộc về công ty Yikon Jenellry Industry ở Malaysia. Trong lúc đang làm việc, 3 nữ công nhân VN tên Nguyễn Thị Sữa, Trần Thị Điểm và Hồ Ngọc Dương bị một nhóm người quản lý của Yikon gọi lên phòng làm việc. Sau đó dùng hành động bạo lực, túm tóc lôi kéo, đánh vào mặt, đạp vào ngực bụng, có người bị đánh đến ngất xỉu rồi mới gọi cảnh sát tới áp giải, đưa ra sân bay trục xuất về VN, mà trên người chỉ có một bộ đồ công nhân đang mặc mà thôi. Lý do, họ chỉ yêu cầu tăng thêm giờ để bảo đảm thu nhập mà họ bị ép vào tội đình công.

Không thấy công ty XKLĐ tên Sovilaco (Quận 3) giải quyết quyền lợi và sứ quán VN tại Malaysia không dám lên tiếng phản đối để giúp công nhân XKLĐ khiếu nại chủ hãng Yikon. Vô trách nhiệm đến thế là cùng vì tiền thầy đã bỏ túi, còn sống chết mặc bây!

Hiện nay, có khoảng trên 120.000 công nhân XKLĐ Việt Nam đang lao động theo hợp đồng tại xứ sở man rợ này. Ngay khi đặt chân tới phi trường, mọi giấy tờ tùy thân của họ đều bị tịch thu; vì vậy, trong thời gian làm việc, nhiều công nhân VN bị chủ nhân Mã Lai tha hồ đánh đập họ tàn nhẫn như súc vật, bỏ đói, khủng bố tinh thần, sách nhiễu tình dục. Ngoài ra, giới chủ nhân còn khất nợ, cuối cùng quịt nợ bằng cách sa thải họ không có lý do, rồi mới báo cho cảnh sát. Theo luật tại Malaysia, các công nhân không có giấy tờ tùy thân sẽ thành những người cư trú bất hợp pháp và sẽ bị trục xuất trong 24 giờ nên họ không cách nào khiếu kiện bọn chủ nhân mọi rợ để đòi lương.

Tờ The Star của Malaysia số ra tháng 3/2 đưa tin về thảm cảnh của 42 người phụ nữ XKLĐ Việt Nam, sống tại thành phố George Town, bán đảo Penang, Malaysia. Họ sống trong một căn hộ 4 phòng, mỗi phòng chỉ đủ chỗ cho 5 người và tất cả chỉ có một chỗ đi vệ sinh duy nhất. Họ từ VN sang Malaysia lao động nhưng đang không có việc làm, không có tiền gởi về nhà trả nợ và giúp gia đình trong khi hộ chiếu đã hết hạn.

Đây không phải là lần đầu tiên báo chí nói về cuộc sống bi kịch của công nhân XKLĐ Việt Nam ở Malaysia. Nếu tiếp tục ở lại thì phải đối diện với muôn vàn khó khăn, nhất là trong hoàn cảnh cư trú bất hợp pháp mà muốn trở về nước càng khổ nhục hơn vì nợ nần chưa trả, nên họ phải nhắm mắt buông xuôi với kiếp sống phiêu bạc giang hồ. Nữ công nhân XKLĐ Việt Nam phải làm nghề mại dâm rẻ tiền để mưu sinh, đó là nghề rất phổ biến ở Malaysia.

Một Đại biểu Quốc hội chất vấn Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội vô cảm. Nguyễn Thanh Hòa, Thứ trưởng bộ nầy tiết lộ từ năm 2004 đến nay có khoảng 400 ca đột tử, trung bình cứ 6 người thì có 1 người XKLĐ chết. Ông cho biết: “Hiện nay có khoảng 120.000 người XKLĐ đang làm việc tại Malaysia, nguyên nhân chất lượng khám sức khỏe kém, không quen với nếp sống đô thị hiện đại, tác phong làm việc công nghiệp nên thường xảy ra tai nạn lao động, tai nạn giao thông? Tất cả đều chối bỏ sự thật là công nhân XKLĐ bị ngược đãi, hành hạ và làm việc quá sức lao động, bằng chứng là có người bị đột tử trong nhà vệ sinh.

Đài Loan:

Các hãng Đài Loan đối xử với công nhân XKLĐ Việt Nam tàn nhẫn không thua Đại Hàn và Malaysia. Hãng Bi - Shiang Enterprise tại làng Sha-Kun, thành phố Hsinchu chuyên sản xuất xe lăn bán sang Canada & Pháp. Ngoài công nhân địa phương, họ mướn thêm 18 nữ công nhân XKLĐ Việt Nam. Theo sự tố cáo của Linh mục Peter Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc Hope Worker’s Center tại Chungli: Các nữ công nhân VN bị cấm ra khỏi hãng sau giờ làm việc, ngày nghỉ không được thăm viếng bạn bè.

Theo luật lao động, công nhân được cung cấp chỗ ở và thức ăn miễn phí, nhưng bọn chủ nhân tự động trừ tiền mua thực phẩm mỗi tháng 2.500 Đài tệ. Hãng chỉ trả lương công nhân 3 tháng/ một lần; thay vì phải trả hàng tháng theo đúng luật. Mỗi cô thợ VN đã bị chủ hãng bắt buộc phải hầu bàn cho các công nhân Đài Loan như bọn đầy tớ hầu hạ bọn quí tộc Đài Loan thời phong kiến.

Vào tháng 2/2005, chính quyền Costa Rica cho biết 6 thủy thủ người VN trong một tàu cá Đài Loan đến cảng Puntarenas đã bỏ trốn khỏi tàu. Họ đã tố giác rằng, họ đã bị tên thuyền trưởng Đài Loan ngược đãi, đánh đập, tra tấn dã man và nhờ chánh quyền sở tại bảo vệ an ninh cho họ. Chỉ huy trưởng sở tại là Luis Diego Solano cho biết, không ai muốn ở lại Costa Rica mà muốn trở về VN. Điều kiện sống và làm việc trên các tàu cá Đài Loan nổi tiếng là tàn tệ, năm nào cũng có những thủy thủ trên tàu đánh cá nổi loạn, cướp tàu, thậm chí giết cả thuyền phó, như vụ xảy ra năm 2002 trên chiếc “Full Means 2” ngoài khơi biển Hawaii.

Ngày 5/10/2009, các thủy thủ VN nổi loạn trên tàu cá Đài Loan tại Nam Phi, đã dùng dao uy hiếp thuyền trưởng và sau đó bị cảnh sát Nam Phi bắt giữ. Cảnh sát Nam Phi ghi nhận rằng, họ làm như vậy vì họ đã bị tên thuyền trưởng Đài Loan đánh đập họ vô cùng dã man trong nhiều tháng liền trên biển. 10 người trên tàu Balena đã trói thuyền trưởng và tấn công thuyền phó ngoài khơi biển Nam Phi. Các thủy thủ VN đã hành động trong cơn tuyệt vọng sau nhiều tháng bị thuyền trưởng người Đài Loan đánh đập và ngược đãi tàn tệ. Sự kiện đã xảy ra vào tháng 8/2013, có 4 thuyền viên XKLĐ Việt Nam tố cáo họ bị hành hạ như nô lệ và phải trốn khỏi tàu cá Hsieh Ta của Đài Loan ở vùng biển của Pháp và đã về tới VN vào tối 12/8/2013.

Theo tin của Vietnamese Missionaries in Taiwan, thân phận của các thiếu nữ XKLĐ sang Đài Loan làm công việc nội trợ (domestic helpers) hoặc giúp đỡ người già, bệnh nhân, các cô được gọi là “osin” thân phận đày tớ không hơn gì thân phận nô lệ, thật khốn khổ và nhục nhã, có khi còn bị sách nhiễu tình dục. Các cô phải làm việc quần quật từ 2, 3 giờ sáng đến 10 giờ đêm cực như một con chó... ăn phải ăn sau chủ nhà, thường là loại “cơm thừa canh cặn” của gia đình nhà thải ra, dành cho người “osin” và cho chó ăn.

Số phận của người công nhân XKLĐ tại Đài Loan hoàn toàn lệ thuộc quyền sinh sát của người chủ của mình vì trong hợp đồng XKLĐ có khoảng ghi là: “Người công nhân hoàn toàn do chủ xử lý và sử dụng”. Nói trắng ra, đây là hình thức “bán đứng dân XKLĐ làm nô lệ cho ngoại nhân”, sống chết mặc bây của ĐCSVN. Người công nhân XKLĐ không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì, kể cả quyền xin chủ nhân đối xử với họ như một con người chớ không phải súc vật...

Saudi Arabia:

Ngày 1/1/2015, chị Vinh về tới Việt Nam. Chị Vinh kể:
 
“Lúc sang làm việc cho chủ thứ hai, chị đã phải làm cả việc nhà của mẹ bà chủ, buộc phải dọn dẹp liên tục, ngày chỉ được ngủ 3-4 tiếng. Nếu mệt quá ngồi nghỉ thì bị gọi chửi, có người bị chủ nhổ nước bọt lên đầu. Ăn chỉ có ăn cơm với ớt, không có thịt, có lúc phải nhặt xương trong thùng rác lên ăn. Không chịu nổi cảnh đời làm nô lệ, chị đòi về nước thì bị chủ nhốt trong phòng một tuần liền, không cho ăn uống. Chị Vinh còn bị chủ nhà cùng mấy người đánh đập, bỏ sỏi vào miệng, lấy lửa bật đốt trước mặt...”

Khi bị họ đánh đập tàn nhẫn, em gọi điện về cho chị Trang (Cty Vĩnh Cát). Chị Trang nói: “Muốn trở về nước phải nộp 58 triệu đồng,” em không chịu, chị ta nói:“Thế thì đừng làm phiền chị ấy nữa!”
 
Thế rồi, công văn số 259 ngày 10/12/2014 của Cty Vĩnh Cát cho rằng: “Chị Vinh muốn về nước, nhưng không muốn bồi thường, nên đã giở các chiêu trò, thủ đoạn... vu cáo chủ ngược đãi là không đúng”.
 
Sau cùng, chị Vinh khẩn thiết đề nghị cơ quan chức năng kịp thời giải cứu nhiều nữ XKLĐ bị kẹt tại Saudi Arabia do không thể chịu đựng được cảnh bị ngược đãi, nhưng không thể về nước vì gia đình quá nghèo không có tiền nộp phạt cho Cty XKLĐ Vĩnh Cát.

Jordan:

Cuối tháng 2/2008, có một số nữ công nhân VN được XKLĐ sang Jordan bị đánh đập tàn tệ. Gần 200 công nhân VN được một hãng may mặc Đài Loan tên W&D Apparel qua môi giới ở VN đã được đưa sang ngoại ô Amman, thủ đô Jordan, với lời hứa sẽ trả 220 Mỹ kim/ tháng. Nhưng khi tới nơi, các công nhân XKLĐ bị tịch thu hết cả giấy tờ tùy thân, phải lao động 16 tiếng một ngày, chỉ được trả từ 80 - 150 USD/ tháng. Đa số các công nhân XKLĐ đình công, chủ nhân người Đài Loan xua nhân viên bảo vệ với sự hổ trợ của cảnh sát sở tại hành hung dã man, kể cả những người đang nằm trên giường bệnh, có người bị chúng nắm đầu quật vào thành giường đến bất tỉnh.

Nô Lệ Tình Dục:

Mới đây, mụ tú bà Trần thị Mỹ Phương và chồng là Tsai Hsein, người Đài Loan đã khai trước vành móng ngựa đã bán 126 cô gái VN sang Mã Lai với giá 1.800 USD một cô. Tại tỉnh Hà Tây, một cặp uyên ương buôn người tên Trần Thị Tình và Phạm Thế Dân đã khai bán phụ nữ VN sang Hoa Lục với giá bèo 1 triệu đồng (50 USD) mỗi cô gái. Và số cô dâu VN tại Hoa Lục ước tính hàng trăm ngàn người. Trong số nầy, có không ít đã vào lò “mổ nội tạng” của bọn kinh doanh đẫm máu trên xác người.

Tờ báo Apple Daily Taiwan đưa tin:
“Một cô dâu VN tên Tuân, 20 tuổi đã bị người chồng độc ác đâm kim vào các đầu ngón tay, rồi nhúng vào nước muối. Cô bị hắn lấy ná thung bắn vào mí mắt, đập bằng gậy và lấy dao cứa chằng chịt vào lưng. Theo hồ sơ của tòa án, hung thủ tên Liu Cheng Chi, 39 tuổi và tòng phạm cũng là vợ của y (giả ly dị) tên Lin Li Ju, vì muốn có con trai nên cho Liu về VN cưới vợ.

Khi cô Tuân sang Đài Loan mới vỡ lẽ, họ vẫn sống chung với nhau thì cuộc hành hạ bắt đầu. Ngoài chuyện bị đánh đập dã man, cô Tuân còn bị bỏ đói, một ngày chỉ ăn được một bữa cơm. Sau nửa năm bị cực hình tra tấn đủ mọi kiểu, cô chỉ còn 20 kg da bọc xương. Lin sợ cô chết nên chở cô bỏ giữa đường. Cô Tuân đã lết tới một tiệm ăn gần đó để xin ăn và may mắn được cảnh sát sở tại chở vào nhà thương cứu cấp.”

Tính đến năm 2006, tại Đài Loan có trên 100.000 cô dâu VN và công nhân XKLĐ, so với năm 1999 chỉ có 21 người. Hầu hết cô dâu VN là người Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ê chề nhất là cảnh “chợ người”, các cô gái công nhân XKLĐ Việt Nam bất hạnh bị bày bán công khai, người ta tranh nhau trả giá, rồi thì các cô bị lôi kéo, xô đẩy, sỉ vả, khinh bỉ, nhưng các cô cắn răng chịu đựng vì các công ty môi giới XKLĐ của VN, họ chỉ cần thâu được lợi nhuận là họ phủi tay, họ bất cần thân phận người XKLĐ ra nước ngoài làm việc, sống chết mặc bây, không có ai bảo vệ họ.

Người nữ công nhân XKLĐ bị bày bán như một món hàng người nô lệ. Nhiều trường hợp mua vợ để thỏa mãn thú tính như trường hợp cô PTT, 28 tuổi, quê ở Nghệ An, trong một tháng phải đi làm thuê cho 8 ông chủ. Chị bị luân phiên hãm hiếp mà không dám khai báo vì công ty môi giới giữ hộ chiếu và giấy tờ tùy thân của chị. Họ còn hù dọa sẽ trục xuất cô về VN. Nhiều công ty môi giới ở Việt Nam đã móc ngoặc với những công ty môi giới bên Đài Loan để họ tha hồ bóc lột sức lao động của công nhân XKLĐ Việt Nam và bảo đảm không bị thưa gởi hay phản đối vì tiền vé máy bay, tiền nghĩa vụ, thủ tục lót đường lên đến vài ngàn đô la, nên khi họ gặp những chuyện áp bức, họ cũng không dám lên tiếng.

Cô dâu Việt Nam “for sale”:

Nhóm nghiên cứu thực trạng hôn nhân Đài Loan của viện Khoa Học Xã Hội tại Sài Gòn cho biết:

“Qua cuộc phỏng vấn trực tiếp 200 cô gái từ 18 tới 21 tuổi, đang lập thủ tục lấy chồng Đài Loan, cho thấy 40% cô dâu VN chỉ học hết lớp 1 (có tới 8% mù chữ), còn lại học hết cấp II. Trên 63% cô dâu VN do môi giới qua đường dây “CÒ”. Số tiền gia đình mỗi cô dâu nhận được sau khi cưới khoảng 500 - 1000 Mỹ kim. Thời gian cô dâu VN gặp chú rể Đài Loan chỉ trong vòng 1 tuần tới 3 tháng là cùng. Các chú rể Đài Loan ngang nhiên mua “cô dâu VN” một cách công khai, rồi đem về Đài Loan để biến cô dâu thành “nô lệ tình dục” cho cả gia đình nhà họ, xài chán chê rồi bán cho lầu xanh ở Cao Hùng hay Đài Bắc, có khi bán cho các lò mổ nội tạng, chẳng những họ lấy được vốn mà còn được lãi “nhất bản vạn lợi”.

Triển lãm cô dâu VN ngay giữa hội chợ Singapore:

Chắc hẳn chúng ta chưa quên được sự kiện vào ngày 16/3/2005 có cuộc triển lãm cô dâu VN ngay giữa Hội chợ Singapore làm cho các hội tranh đấu nữ quyền trên thế giới hết sức bất mãn, khi nhìn thấy những người con gái VN bị đem ra làm những mối hàng bày bán như “thú vật” tại một hội chợ ở Singapore để quảng cáo cho chương trình đi VN lấy vợ ở quốc gia nầy.

Gian hàng có bày hàng 3 cô gái VN mang tên “Trung tâm hôn nhân trái tim hạnh phúc”. Tại đây, có người đứng phân phát truyền đơn quảng cáo những dịch vụ như“Lấy vợ VN ngay tại chỗ với giá 9.000 đô la Singapore” hay dịch vụ sang trọng hơn lên đến 13.000 đô la Singapore. Bà Breama - Chủ tịch Hiệp hội Bảo vệ Nhân phẩm Phụ nữ tại Singapore - nói rằng:

“Đây là một hành động không thể chấp nhận được,” bà kêu gọi. “Chính phủ Singapore phải có những biện pháp cụ thể để ngăn chận những việc này tái diễn và cho rằng, đây không khác gì như tình trạng buôn người mà thôi".

Người Tàu mua phụ nữ VN làm nô lệ tình dục và lấy nội tạng:

Theo bản tin Tân Hoa Xã, ngày 20/8, thông báo họ đang tiến hành điều tra vụ rất đông các cô gái VN trong khu làng thuộc huyện miền núi Song Phong trong tỉnh Hồ Nam bên Tàu bị mất tích. Gần đây, báo chí VN cũng đã nhiều lần đăng tin về những vụ lừa đảo thiếu nữ VN nhẹ dạ bán sang Hoa Lục làm gái mãi dâm hoặc làm cô dâu, nhưng họ tránh né không muốn đề cập đế một thực tế ghê rợn là họ bị đánh cấp nội tạng đem bán.

Buôn bán “thận” là một nghề đang nở rộ và cực kỳ béo bở ở Đại Lục. Nguồn cung cấp nội tạng từ học viên Pháp Luân Công, tù hình sự, người vô gia cư và đặc biệt Việt Nam hiện nay là nguồn cấp nội tạng vô tận cho các bệnh viện chuyên mổ lấy nội tạng ở Đại Lục. Tính theo thời giá hiện nay, mua một cô dâu VN giá di động từ 1.000 - 2.000 USD là cùng, còn giá trẻ em từ 500 - 1500 USD. Đem họ về Đại Lục, bán lại cho các lò mổ nội tạng sẽ có thu nhập từ 80.000 - 100.000 USD cho 2 quả thận, đó là chưa kể những bộ phận khác như tim, gan sẽ được giá cao hơn. Hầu hết các dịch vụ mua buôn người đều diễn ra tại các tỉnh vùng biên giới phía bắc như: Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng... với sự tiếp tay của chính quyền địa phương.

Ngàn giọt nước mắt rơi trên nỗi đau Dân Tộc:

Hình ảnh một cảnh sát Campuchia đang áp giải một bé gái VN 11 tuổi đời ra khỏi một động mãi dâm tại “khu đèn đỏ” Tuol Kork, Nam Vang. Có 6 bé gái VN từ 11 - 13 tuổi đã được cứu ra khỏi khu nhà thổ nầy. Các em đều bị chở sang đây qua ngã Tây Ninh hoặc Châu Đốc do các đường dây buôn người ở Việt Nam vận chuyển.

Tại khu đèn đỏ Svay Pak, cảnh sát Campuchia cứu thoát được ít nhất 36 em bé VN bị cưỡng bách bán dâm, nhỏ tuổi nhất dưới 10 tuổi đời. Quận ven đô có 5,6 nhà chứa ở các đường hẻm trong khu ổ chuột. Ông Khut Sopheang (công tố viên địa phương) nói:

“22 người có vẻ trẻ hơn 10 tuổi, trong nhà chứa khác có 9 đứa trẻ gái từ 6 - 9 tuổi. Vài bé gái khác có lẽ chỉ mới 5 tuổi. Các em khóc khi chúng tôi tìm thấy các cháu,” ông nói. “Có tới 70% gái mãi dâm ở Campuchia đều là trẻ em VN, phần đông đến từ vùng ĐBSCL.”

Tại khu đèn đỏ ở Toul Kork hay Svay Pak, nơi nào cũng giống nhau. Hình ảnh những em bé gái VN thật đáng thương, tuổi đời chừng 5 tới 7 tuổi, thân mình mãnh mai yếu đuối, đứng chen chúc sau một khe hở của căn phòng dưới ánh đèn điện mờ mờ ảo ảo. Các em đang chờ cha, chờ mẹ, chờ chị, chờ anh tới đón các em về nhà? Không, không có một ai cho các em chờ đợi cả! Chỉ có những con yêu râu xanh rước các em đi vào địa ngục, các em sẽ bị chúng hành hạ thân xác đau đớn tột cùng, những cơn đau banh da xé thịt khi các em bị chúng phá hoại trinh tiết, các em nhỏ xấu số đáng thương phải tiếp khách từ 15 tới 20 lần một ngày. Còn nỗi đau đớn nào dành cho các em bé VN đáng tội nghiệp kia?

Kết luận:

Đài VOA đưa tin ngày 20/6/2013, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố:

“VN là điểm xuất phát của nhiều công nhân XKLĐ sang nhiều quốc gia trên thế giới như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc... và nhiều người trong số đó phải làm việc như nô lệ khổ sai”.

Theo báo cáo “Phúc trình thường niên về nạn buôn người”, nhiều công ty XKLĐ ở Việt Nam mà đa phần có liên hệ tới các “tập đoàn nhà nước”, cùng với các công ty trái phép đã lấy tiền môi giới đi XKLĐ ở nước ngoài với giá quá cao, khiến các công nhân vướng vào cảnh nợ nần chồng chất thuộc loại cao nhất trong các công nhân XKLĐ châu Á, nên họ buộc phải lao động khổ sai trong điều kiện rất tồi tệ để có tiền gởi về Việt Nam chỉ đủ để trả nợ.

Anh Trần Ngọc Sơn, một công nhân XKLĐ ở Nam Hàn cho biết:

“Có nhiều công nhân XKLĐ phải bỏ ra rất nhiều tiền, quá nhiều so với quy định nhà nước,” anh nói. “Một số người nhà có điều kiện, họ không phải vay mượn. Nhưng, đối với một số gia đình nghèo, không đủ chi phí trang trải, họ phải đi vay nặng lãi. Một số người đi theo các đường dây đưa người ra nước ngoài thì họ phải chạy chọt này nọ.”

Phúc trình còn cho biết, nhiều công ty tuyển dụng VN chỉ cho phép người công nhân XKLĐ đọc các hợp đồng ngay trước khi lên đường đi làm việc ở nước ngoài và buộc một số công nhân phải ký vào các hợp đồng viết bằng một thứ ngôn ngữ mà họ không thể hiểu được, trong đó có điều khoản chết người như: “Người công nhân hoàn toàn do chủ xử lý và sử dụng” điều nầy có nghĩa người công nhân XKLĐ thuộc quyền sinh sát của giới chủ nhân và không được một ai trợ giúp khi xảy ra các tình huống bất ngờ như vậy.

Theo báo cáo của Trafficking in Person ngày 15/7/2013, một trong những vấn đề là các công ty XKLĐ và lực lượng cò mồi trung gian thường xuyên thu phí quá cao so với quy định của pháp luật và công nhân XKLĐ của các nước khác ở châu Á, khiến họ rơi vào cảnh nợ nần trong nhiều năm. Phần lớn trong số công nhân XKLĐ này muốn trở về VN sớm, thường thì 1 hoặc 2 năm và họ không có đủ tiền để trả nợ. Ngoài ra, các nạn nhân XKLĐ thường bị tịch thu hết các giấy tờ tùy thân, hộ chiếu hoặc thường xuyên bị lực lượng môi giới dọa trục xuất họ, để buộc họ làm việc trong điều kiện tồi tệ với mức lương thấp hoặc không trả lương.

Cũng theo báo cáo nầy, rất nhiều công nhân trong số nầy trở thành nạn nhân buôn người bị hệ thống “cò mồi” vô lương tâm hay các ông chủ buộc họ phải làm công việc ngoài thỏa thuận ban đầu trong điều kiện bị bóc lột vô cùng. Nhiều công nhân buộc phải đóng tiền tuyển dụng lên tới 7.700 USD, khoản nợ nầy rất lớn đối với họ.

Itar-Tass ngày 10/7/2013, đưa tin: Cơ quan di trú Liên Bang Nga và cảnh sát đã đột kích một khu công nghiệp ở phía đông Matxcova, bắt giữ 250 người VN cư trú bất hợp pháp. Hồi đầu tháng 5, RIA Novosti cũng trích nguồn tin cảnh sát Nga, nói đã bắt giữ khoảng 500 người VN nhập cư trái phép, đang làm việc bất hợp pháp tại một xưởng may áo khoác ở làng Malakhovka, Matxcova. Trước đó không lâu, vụ 15 thiếu nữ VN bị lường gạt sang Nga với những lời hứa hẹn việc làm, nhưng thực tế bị đẩy vào ổ mại dâm của tú bà Thúy An, cũng được báo giới đưa tin. Năm 2012, có hơn 100 công nhân XKLĐ Việt Nam nghề may mặc đưa sang Nga và bị ép làm việc như nô lệ cho đến khi cơ quan di trú Nga giải cứu và đưa họ về nước.

XKLĐ là một dịch vụ kiếm ăn không cần vốn rất béo bở nên Đảng & Nhà nước CSVN và Bộ LĐ-TB-XH và 154 doanh nghiệp nhà nước của chế độ giữ chặt lấy cơ hội vàng để bóc lột tham nhũng thả giàn, ngồi mát ăn bát vàng làm giàu trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của những công nông dân nghèo lại tàn mạt thêm. Ngoài các khoản chi phí tổng nộp cho nhà nước để giành một chỗ bán thân đi làm nô lệ để cho ngoại nhân chà đạp nhân phẩm mà còn phải hối lộ cho bọn môi giới và bọn cò mồi vô lương tâm.

Xin đồng bào trong nước sớm tỉnh táo từ bỏ ý định XKLĐ. Hãy nhìn những thảm cảnh của những người công nhân XKLĐ Việt Nam bị bọn chủ nhân nước ngoài ngược đãi, lao động khổ sai, đánh đập, bỏ đói, không trả lương hoặc trả thấp đủ sống cầm hơi để đủ sức lao động khổ sai cho chúng mà không có một ai can thiệp, bênh vực quyền lợi cho họ, vì Đảng & Nhà nước CSVN đã đem con bỏ chợ, sống chết mặc bây vì tiền thầy đã bỏ túi. Đừng trông mong gì các tòa Đại sứ hoặc Tổng Lãnh Sự hay Lãnh Sự Quán Việt Nam ở hải ngoại can thiệp vì họ đã nhận chỉ thị của ĐCSVN ngậm miệng ăn tiền.

Hãy nhìn những tấm gương của những công nhân XKLĐ sang Malaysia làm việc, họ bị lực lượng bảo vệ, tịch thu hết giấy tờ tùy thân, sống lang thang đầu đường xó chợ, không tiền mua vé máy bay hồi hương, một số người bị cảnh sát Malaysia bắt giam như một tội phạm, một số phụ nữ phải sa chân vào chốn lầu xanh rẻ tiền để sống lây lất qua ngày trên xứ người, nên có một số chị em vướng phải bệnh AIDS chết bỏ thay nơi xứ lạ quê người đã nói lên thảm cảnh địa ngục trần gian, tủi nhục và phẫn hận của người công nhân XKLĐ Việt Nam, thân phận của họ không khác gì thân phận của người Phi Châu bị bán làm nô lệ ở Tân Thế Giới vào thời xa xưa...

Trước khi kết thúc chủ đề của bài viết nầy, tôi xin mượn danh ngôn của nhà thơ Voloshin để nhắn gởi đồng bào trong và ngoài nước: “Hãy cho đi! Hãy nhường tất cả đi! Rồi bạn sẽ giành được tủi nhục, nghèo đói và làm tên nô lệ khốn khổ nhất.”

24.09.2016
Tổng hợp & nhận định
Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Ai sẽ chịu trách nhiệm trước nổi nhục quốc thể này???
Người dân trong nước ơi, hãy tìm hiểu rỏ ràng trước khi bán thân làm XKLĐ hay lấy chồng xa xứ.
------------------
Biển Dông 75
25.1.2016