Lời giới thiệu: Ký sự này đã được phổ biến vào tháng 4 năm 2000. Với
sự đồng ý của tác giả Lý Tuấn, Biển Ðông 75 phổ biến vì bài viết nhắc lại một
giai đoạn lịch sử, dù rằng biến cố đã được diễn tả thu hẹp chỉ ở thủ đô Việt
Nam Cộng Hòa là Sàigòn, nhưng mang cả tầm vóc của một cuộc chiến đấu để bảo vệ miền
Nam Việt Nam, được thể hiện dưới sự lãnh đạo
của hai thể chế VNCH. Biển Ðông 75 hy
vọng “ký sự” sẽ là một đóng góp nhỏ
cho ngày tưởng nhớ và cũng là sự nhắc nhở hiện tình đất nước dưới sự thống
trị của đảng Việt gian cộng sản – hiện đang trong tình trạng “có thể” rơi vào vòng nô lệ của Tàu cộng(?)!
Biển Ðông 75
-=-=-=-0-=-=-=-
Ký sự:
Cánh đồng
xanh màu mỡ
Lý Tuấn
M
|
ặt trời đã lên khá cao, nắng xuyên qua kẽ
những chùm mây bay lơ lửng tạo nên hình ảnh khi tối, khi sáng như đêm và ngày
kề cận bên nhau. Không khí thật oi bức, ngột ngạt… báo hiệu một ngày đầy nắng
lửa. Tôi và hai người bạn bước vào quán cà-phê quen thuộc trong xóm. Quang cảnh
quán hôm nay có vẻ khác thường vì khách đông hơn thường lệ và có cả những gương
mặt rất ít khi vào thưởng thức mùi vị cà-phê. Tuy đông khách, nhưng khung cảnh
không náo nhiệt như mọi ngày, chỉ có những tiếng thì thầm to nhỏ cùng với tiếng
nhạc từ cái radio của bà chủ quán H. mở cho mọi người nghe. Chúng tôi vào quán
lần này không phải để thưởng thức hương vị cà phê, mà là muốn được chia xẻ
những nỗi lo âu cùng với mọi người. Bỗng nhiên, đài phát thanh ngưng vài giây
đồng hồ rồi tiếng của cô xướng ngôn viên vang lên một cách trịnh trọng:
“Yêu
cầu đồng bào mở máy radio và chờ nghe tin tức quan trọng sẽ được phát thanh
trong chốc lát!”
Sau đó là tiếng của ông tổng thống ba ngày, mê phong lan và quần vợt
(tennis), Dương văn Minh “tuyên bố đầu hàng”. Đó là buổi sáng mà suốt đời tôi
sẽ không bao giờ quên được, ngày 30-4-1975.
Ngày 18-3-1975, quân Khmer Đỏ tiến vào Nam-Vang, kết
thúc một trang sử và cũng mở đầu cuộc tắm máu mới khủng khiếp của quốc gia này.
Sự kết thúc đó đã báo hiệu một tình huống với nhiều đen tối đang chờ đợi Việt
Nam. Vì trong suốt cuộc chiến, Cao Miên với ông hoàng Sihanouk như một diễn
viên màn ảnh, lúc thì đóng vai “kép thương”, khi thì thủ vai “kép độc”! Nhưng
chỉ có “độc” mà không có “thương” nên quốc gia của ông đã cống hiến cho nhân
loại vở tuồng mang tên “Cánh Đồng Giết”
(The Killing Field). Nước láng giềng của ông là Việt Nam, đã khôn ngoan hơn nên
không chịu trình diễn vở tuồng quá lộ liễu đó, chỉ âm thầm diễn tuồng “Rừng Đầy Xương Khô” rất thành công dù
không có khán giả quốc tế thưởng thức. Máu xương người dân lành của hai dân tộc
đã phải chan hòa, làm phân bón cho núi rừng âm u, các cánh đồng xanh màu mỡ… để
sản xuất những hạt gạo khô màu máu; những viên sỏi đá không bao giờ thành cơm,
chỉ thành viên thuốc độc (thơ khẩu hiệu của đảng mafia Việt Cộng là: Có sức
người sỏi đá cũng thành cơm); các loại cây mang tính người – để lịch sử của cả
hai nước phải sang trang với toàn bất hạnh.
Ngày 26-3-1975, những tin tức được loan đi từ các đài
phát thanh, truyền hình và báo chí cho biết quân đảng mafia Việt cộng đã mở các
cuộc tấn công đồng loạt vào Ban Mê Thuột, Pleiku và Quảng Trị. Cảnh người dân
của các vùng giới tuyến ở miền Trung phải bỏ quê hương, làng mạc bồng bế nhau
chạy trốn đảng mafia Việt Cộng, chìm vào Biển Đông trên những chiếc thuyền con,
xà-lan! Rồi đến lệnh “tùy nghi di tản” từ Kontum, Pleiku về Tuy Hòa xuyên qua
quốc lộ 7B. Cảnh quân dân hỗn loạn chết vì pháo của đảng mafia Việt Cộng trên
quốc lộ này. Đó là những hình ảnh đau thương của dân tộc Việt Nam; là cảnh buồn
thảm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã phải bó tay bởi lệnh của vài cấp lãnh
đạo quân sự do Tây đào tạo để lại, cầm đầu là Nguyễn văn Thiệu. Thêm vào đó,
hàng ngày đài BBC cứ như là được đảng mafia Việt cộng trả lương loan tin thất
thiệt: nay thì mất tỉnh này, mai thì mất tỉnh nọ (dù rằng chưa mất, thí dụ: Nha
Trang chỉ rơi vào tay cộng quân gần một tuần sau khi đài BBC đã loan tin) v.v…
Càng gây thêm cảnh bấn loạn trong dân chúng, góp công lớn cho việc tiến quân
của đảng mafia Việt cộng trong việc xâm lược miền Nam Việt Nam.
Tin Ban Mê Thuột thất thủ là một gáo nước lạnh xối vào đầu người dân
miền Nam. Vì, nếu Miên không lọt vào tay Khmer Đỏ, tin đó cũng chỉ là một tin
chiến sự thường nhật, Ban Mê Thuột có rơi vào tay cộng quân rồi cũng sẽ được
tái chiếm. Cái ý nghĩ Sàigòn sẽ lọt vào tay đảng mafia Việt Cộng bắt đầu hiện
lên trong trí mọi người miền Nam. Bởi vì, dù không có hiệp ước “môi Thị Nở,
răng Chí Phèo’” (chuyện Chí Phèo của Nam Cao), hầu hết người dân miền Nam đều
hiểu rằng sự liên hệ của ba nước Đông Dương sẽ đưa đến việc máu của anh đã chảy, thì máu của tôi cũng sẽ
chảy. Cảnh nhốn nháo bắt đầu nhen nhúm khi người dân lo mua tích trử
những vật dụng cần thiết hàng ngày, nhưng lần này có vẻ đặc biệt hơn vì hầu hết
mọi nhà đều cố gắng mua cho bằng được một gói, hoặc một thùng “cấp cứu”
(first-aid) nhỏ. Cảnh xáo trộn gia tăng khi tin Pleiku thất thủ. Rồi những lệnh
của “tông tông” Thiệu (ai ngờ lại thành tông-đơ (tondeur)), nào là tái phối
trí, tùy nghi di tản v.v… Nhìn trên truyền hình cảnh những đơn vị quân đội di
tản cùng với đồng bào từ miền Trung vào Sài-gòn; cảnh ông Thiệu tố Mỹ phản bội
và từ nhiệm chức vụ tông-tông, để Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lời thêm một vị
trung tướng, đó là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu! Người dân miền Nam biết rằng
đã đến lúc chấm dứt chương trình của ban Tùng Lâm! Điều cụ thể nhất là tự tìm
cách bảo vệ cho chính mình và gia đình.
Sài-gòn thật sự đi vào hỗn loạn. Nó lại càng thêm hỗn
loạn khi những gia đình giàu và có điều kiện hơn tập trung ở phi trường Tân Sân
Nhất và trước tòa đại sứ Hoa Kỳ… chờ được di tản khỏi Việt Nam. Đối lại, cũng
có những người nghèo nhân cơ hội rối loạn đến các kho hàng “hôi” chút ít đồ đạc
gọi là gỡ gạc; hoặc nhào vào bến cảng Sàigòn (kho 5) kiếm bao gạo! Thế nhưng,
cũng có người không cần biết những gì đang xảy ra… ung dung đi dạo xem Sài-gòn
ra sao? Và, buồn nhất là cũng có những đứa chuẩn bị súng đạn, cờ quạt để đón…
chào quân lính đảng mafia Việt cộng.
Nhớ lại khi hội nghị Paris đang diễn tiến, trường đại
học Vạn Hạnh (chùa Ấn Quang) đã thành lập một đơn vị “đặc công” bao gồm thanh
niên, học sinh và sinh viên của trường. Nhiệm vụ của họ là tiếp tay Mặt trận
giải phóng miền Nam (MTGPMN) đánh phá các cứ điểm quan trọng trong thành phố
khi chúng tấn công vào Sài-gòn. Nhưng sự việc đã không xảy ra như dự định nên
họ chỉ đóng vai trò tiếp đón và hướng dẫn quân lính Việt cộng. Người Sài-gòn đã
chứng kiến cảnh các thanh niên nam nữ của đơn vị này cầm cờ “mặt trận”, cờ “đỏ
sao vàng”, tay đeo “băng xanh đỏ” cưỡi honda chạy quanh thành phố hân hoan chào
mừng xâm lược thành công… của đảng mafia cộng sản. Cũng từ đó, người Sài-gòn
đặt tên cho đơn vị này là: sư đoàn 30-4 hoặc 304. Nhân đây, tôi xin phép được
hỏi ông nguyên Phó Viện trưởng trường Đại học Vạn Hạnh, Ðoàn viết Ho ạt, người đã cầm cờ MTGPMN chào mừng
ngụy quân cộng sản ở ngã tư Bảy Hiền, giữ nhiệm vụ, chức vụ gì trong đơn vị đặc
công đó? Tôi phải hỏi ông câu này vì từ ngày ông ra sinh sống ở hải ngoại, ông
công khai bác bỏ cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Bởi ông quên rằng trong khi ông ở tù (?)
đồng bào hải ngoại đã tập trung dưới cờ này đi biểu tình tranh đấu cho ông được
tự do – cũng như đóng góp tài chính để vợ ông có phương tiện đi đây, đi đó, họp
báo kêu gọi sự giúp đỡ cho ông. Ông quên rằng cũng chính Cờ này đã bao bọc thân
xác hằng trăm ngàn chiến sĩ để ông được thảnh thơi du học lấy cấp bằng tiến sĩ!
Hành động quay lưng và không chấp nhận cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có phải là đạo đức của
một người trí thức? Thái độ của ông hiện ra sự vong ân bội nghĩa thì làm sao
người Việt có thể coi ông là một lãnh tụ! Hay ông được phép ra hải ngoại là để
thi hành sứ mạng “bí mật” mà đảng mafia đã giao phó? Xin đừng hỏi tại sao đồng
bào tị nạn cộng sản ở hải ngoại tỏ thái độ lạnh lùng đối với ông. Ông nên tự
hỏi chính ông đã làm những gì trong quá khứ để đem lại tình trạng đất nước ngày
hôm nay; nhất là những gì ông đang cố thực hiện có phải phát xuất từ chính
lương tâm của một người trí thức yêu nước – hay chỉ để đáp lại ân sủng của
những kẻ thưởng công ông căn villa ở đường Mạc Đỉnh Chi, Sài-gòn sau 30-4-1975?
Tôi tin rằng không ai có thể dấu được bất cứ việc gì dưới ánh sáng mặt trời mãi
mãi. Hơn nữa, chiêu bài hòa giải hòa hợp đã lỗi thời không còn ăn khách. Vết
thương hòa hợp hòa giải đối với dân tộc Việt Nam nói chung, đối với tập thể người
Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại nói riêng, vẫn còn rỉ máu và người Việt Nam
đang cố gắng ngăn chận vết thương đó để nó không trở thành vết mủ ung thối. Cảm
ơn sự rao giảng loại thuốc mang độc trùng mafia Việt Cộng. Xin vui lòng giữ lấy
nó làm của riêng cho chính ông!
Hai quả bom từ chiếc F5 của tên phi công phản bội
Nguyễn thành Trung rơi xuống dinh Độc-lập nhưng không trúng mục tiêu. Sài-gòn
càng thêm hỗn loạn. Lệnh giới nghiêm 24/24 được ban hành nhưng không có hiệu
lực vì chẳng còn ai lưu tâm đến. Bởi vì, hầu hết những người hiện diện trên
đường phố là để tìm lối thoát khỏi Việt Nam; hoặc sống về nghề buôn bán… cùng
với những đơn vị cảnh sát và binh sĩ của một số binh chủng được điều động về
bảo vệ Sài-gòn. Lòng tôi bỗng dâng lên niềm chua xót khi nhìn gương mặt hồn
nhiên, vô tư của những người lính trẻ… vẫn nghiêm chỉnh thi hành nhiệm vụ dù
các cấp chỉ huy đã vắng mặt. Đất nước đã có những tên phản bội, hèn nhát thì
đất nước cũng có nhiều anh hùng. Có ai là người thấy được sự hy sinh tuổi trẻ
và niềm vui cuộc đời của các anh? Tôi hy vọng cũng phải có người đã thấy được
những điều bất hạnh đó! Riêng tôi chỉ có thể nói lên rằng:
Các anh, dù ở
bất cứ hoàn cảnh nào; dù hiện tại có bị bạc đãi; dù thân xác có bị hành hạ từ
những ngục tù cộng sản dã man; hoặc đã về với lòng đất mẹ, các anh đã trở thành
ngọn đuốc soi đường cho những thế hệ mai sau, và cũng sẽ mãi mãi ghi khắc trong
tim tôi: Hình ảnh những người chiến-sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hậu thân của
Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học v.v…
Lễ bàn giao chức vụ tổng thống giữa ông Già Gân Trần
văn Hương cho ông tướng Big Minh hoàn tất vào ngày 28-4-1975. Có người cho rằng
Big Minh ham làm “tông tông” nên dại dột đưa đầu ra hứng. Tôi nghĩ rằng Big
Minh không dại như người ta nói mà ông ta tự tin là được Pháp đào tạo, được
quan thầy Pháp là đại sứ Mérillon tại Sài-gòn đỡ đầu cùng đảng mafia Việt Cộng
hứa hẹn chi đó nên chắc mẩm sẽ nắm cái ghế “tông tông” của chính phủ ba thành
phần ở miền Nam, đó là nguyên nhân đã khiến ông can đảm đưa mặt ra làm cái… mâm
cho người ta chọc! Ôi đời người! Ôi danh vọng! Chỉ là bãi rác đầy xú uế!
Tối 28-4-1975, Huỳnh tấn Mẩm
xuất hiện trên đài truyền hình Sài-gòn. Anh ta đã cố trấn an đồng bào qua lời
kêu gọi đại khái như sau:
“Xin đồng bào yên tâm, không có
chi phải lo lắng và sợ hãi, những người anh em phía bên kia cũng là người Việt…
Nam!”
Vâng, chúng là người Việt Nam, nói tiếng
Việt Nam – nhưng chúng không có tâm hồn Việt Nam và vì Việt Nam. Chúng là Việt
Nam kiểu Lê chiêu Thống, Lê Hoan, Hoàng cao Khải, Nguyễn sinh Huy (bố của Hồ
chí Minh) v.v… và sau cùng chúng là Việt Nam kiểu của anh, vì chúng là đồng bọn
của anh, chỉ biết có giết và giết! Điểm khác biệt này đã được chứng minh rõ
ràng rằng đất nước dưới sự cai trị tạm thời của các anh – nhà tù mọc lên như
nấm còn nhiều hơn trường học – hàng triệu người vô tội bị các anh giết, xác
chôn vùi rải rác khắp các vùng rừng núi Việt Nam – gia đình tan nát, luân
thường đạo lý đảo lộn, đất nước chỉ còn lại một lũ duy nhất là đảng mafia! Các
anh, những người đã tự nhận không đứng bên phải cũng chẳng đứng bên trái – vậy
thì phải đứng ở phía dưới – của chính giữa – khôn thật, đã ngụy trang khéo léo
để không ai khám phá ra chân tướng thật sự của các anh trong cuộc chiến. Ngày
nay, người dân Việt Nam không nói rằng đã khám phá ra chân tướng thực sự của
các anh, mà khẳng định rằng là hiểu biết tường tận ý nghĩa:
Đứng phía dưới – của chính
giữa là: mafia, đồ tể… mafia!
Sáng ngày 29-4-1975, nhân dân miền Nam được nghe đọc
trên đài phát thanh Sài-gòn sắc lệnh đầu tiên của tân tông tông Big Minh, yêu
cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Sau khi sắc lệnh được ban
hành, có những người không hề có ý nghĩ bỏ chạy trước đây bây giờ cũng rục
rịch… nhưng quá trễ! Đi đâu bây giờ? Đường phố chen chân không lọt và thỉnh
thoảng lại có tiếng đạn pháo nổ gần đâu đó kèm theo những tràng súng nhỏ nổ bì
bọp, có thể là của những anh chàng “nhân dân tự vệ”, cũng có thể là của các
“tân đồng chí AK 30-4” v.v… Không còn lối chạy, thôi thì cùng xóm làng, bè bạn
tụ nhau tán láo, “có thể Big Minh cứu vãn được tình hình vì Big Minh là người
của Pháp, là kẻ đi hai hàng, và Pháp vẫn liên lạc ngoại giao, làm ăn buôn bán
tốt với đảng mafia Việt cộng kể từ sau năm 1954!” Có người hiểu biết tình hình
và nhất là về mafia Việt cộng hơn thì chỉ mỉm cười không nói! Sau cùng, mọi
người cùng ngước mắt lên trời nhìn những chiếc F4, F111 và trực thăng di tản
của Mỹ bay lượn trên không phận Sài-gòn. Nhìn những chiếc trực thăng bay ngược
ra phía bờ biển, ai ai cũng hiểu có nhiều người di tản ngồi trên đó, có người
chép miệng thì thầm: phải chi mình cũng ngồi trên đó! Sự việc này cho thấy dù
có rất nhiều người muốn rời Việt Nam nhưng không đi là vì nặng tình quốc gia
dân tộc, và nhất là bị ảnh hưởng bởi lời kêu gọi của Huỳnh tấn Mẩm. Những tình
tự, vấn vương của con người thuần chính đưa đến cái kết quả mà ngàn đời sau sẽ
không quên. Đó là:
Hàng bao trăm ngàn
người Việt đã chết chìm ngoài Biển Đông trong cuộc trốn chạy bạo quyền đảng
mafia Việt cộng!
Khoảng 11 giờ sáng 30-4-1975, một lần nữa nhân dân miền
Nam được nghe sắc lệnh thứ hai đọc trên đài phát thanh Sài-gòn của “tông tông”
Big Minh – Đó là lời tuyên bố “đầu hàng”! Trang sử đen tối, đẫm máu được lật
qua và nhường bước cho trang sử của cỗ xe mới khủng khiếp gấp ngàn lần hơn
chuyển bánh! Và sắc lệnh đó là sắc lệnh cuối cùng của thể chế miền Nam, chấm
dứt một cuộc chiến tranh xâm lược mà người dân miền Nam nói riêng, toàn dân
Việt Nam chân chính nói chung, không bao giờ muốn. Nhưng sự giết chóc không
chấm dứt ở đó mà nó chỉ là giây phút bắt đầu cho một cuộc chém giết mới tàn bạo
và thảm khốc hơn! Những lò sát sinh đặc biệt được mọc lên với những cái tên
thích hợp với tình thế mới, đó là: “Trại Cải Tạo” dành cho quân, công, cán,
chính miền Nam, là những người “mang nợ máu với nhân dân” theo sự buộc tội của
tập đoàn đảng mafia Việt cộng. Sự khủng khiếp của các trại này còn tồi tệ gấp
trăm lần những trại giết người tập thể của Hitler ở thế chiến II. “Vùng kinh tế
mới” là nơi được dùng để:
- Thực hiện chính sách cướp tài
sản, nhà cửa của nhân dân miền Nam;
-
Trả thù nhân dân miền Nam bằng cách đầy ải và dùng thiên nhiên giết họ trong
danh chính ngôn thuận qua cái gọi “giản dân tập trung quá đông đúc tại các
thành phố trong chiến tranh.”
Nếu họ còn sống sót thì cũng trở thành
những người ăn mày, ăn xin đầu đường xó chợ vì nhà cửa, tài sản đã bị đảng
mafia cướp đoạt – Thanh niên nam nữ cũng đã phải bỏ mình vì bịnh tật hoặc ở các
chiến trường Miên, hoặc ở biên giới với Trung cộng, trả giá cho cuộc phiêu lưu
chiến tranh làm tay sai ngoại bang của tập đoàn đảng mafia cộng sản Việt Nam.
Đồng thời, đảng mafia Việt cộng cũng có ý định triệt hạ những mầm mống chống đối
trong tương lai, vì thế hệ này đã có đủ trí khôn nhận xét và so sánh giữa hai
chế độ – một mũi tên bắn hai con chim – Thế giới phải rùng mình khi nói đến tên
Việt Nam dưới lá cờ máu và ngôi sao vàng bệnh hoạn!
Bầu không khí trong quán đột nhiên trầm xuống, bà chủ
quán vặn radio nhỏ lại. Không ai nói với ai dù chỉ một lời. Mọi người ngồi
ngước mắt nhìn khói thuốc loãng bay trong không gian tĩnh mịch. Khoảng mười
phút trôi qua, tôi liếc mắt nhìn quanh, nhiều gương mặt hiện ra nét buồn vô tả,
cũng có vài bộ mặt với nét cười mỉm hài lòng! Tôi không thể diễn tả được tâm tư
tôi trong phút giây kinh hoàng đó vì đầu óc của tôi là khoảng trống của bãi sa
mạc về đêm! Nói gì, nghĩ gì… định mệnh là bài toán nhiều ẩn số không ai thấy
được, giải được. Nó chỉ xuất hiện khi phải xuất hiện, rồi nó cũng phải ra đi
nhường chỗ cho ẩn số khác tiếp nối. Cái ẩn số đó đã được thai nghén từ sau
tháng 7-1954, hiện lên như một bóng mờ từ ngày 18-3-1975, sau cùng xuất hiện và
kết thúc bước đầu của cuộc chiến xâm lược của Hồ chí Minh và đảng cộng sản của
hắn trong nhiệm vụ nhuộm đỏ ba nước Ðông-dương cho các quan thầy Nga-Tàu đỏ,
vào sáng hôm nay, 30-4-1975.
Tôi quay lại nhìn hai người bạn, chưa biết phải nói gì
thì một anh đã thì thầm:
“Chiến tranh đã kéo dài gần hai mươi năm. Bây giờ mới thực sự
hòa bình!”
Tôi chưa kịp
có ý kiến thì anh bạn khác đã thở dài nói:
“Tao không biết cuộc đời của tụi mình sẽ đi về đâu?”
Hai ý kiến
thật tương phản – Một có vẻ chấp nhận với thực tại miễn sao tiếng súng chấm
dứt! – Một đã thấy được viễn tượng tương lai không sáng sủa… dù rằng tiếng súng
đã chấm dứt! – Tôi ngồi lặng thinh với những ý nghĩ vừa trở về trong trí. Thấy
không thể có ý kiến nào thích hợp để đáp lại hai ý kiến đó, tôi yên lặng quan
sát hai người rồi nhìn mọi người trong quán. Một số đứng dậy ra về. Bà chủ quán
từ chối nhận tiền trả cà-phê của mọi người và nói:
“Hòa bình
đã đến, tôi xin đãi mọi người bữa cà-phê sáng nay – khỏi phải trả tiền”!
Lại thêm ý kiến về “hòa bình” nhưng được
mọi người hoan hô vì đã được uống bữa cà-phê “chùa”. Tôi quay qua hai người bạn
và nói: “Que sera sera!” Chúng tôi chia tay và hẹn gặp lại trong một hoàn cảnh
thích hợp, vui tươi hơn.
Tôi muợn xe đạp của anh bạn hàng xóm đánh một vòng từ
đường Bạch Đằng qua khu Nhà Rồng rồi xuống tới kho 5 thì bị tắc nghẽn. Tại bến
Bạch Đằng, hàng ngàn, hàng chục ngàn người vẫn kiên nhẫn và bất chấp mọi nguy
hiểm vì đạn pháo, đạn súng nhỏ bắn vô tội vạ của mọi loại người có súng trên
tay, chỉ với một hy vọng mỏng manh là… có thể thoát khỏi Việt Nam ở những giây
phút cuối cùng. Tôi dắt xe đạp đi xa hơn về phía đường Nguyễn Huệ, vòng về Lê
Lợi rồi Hàm Nghi. Không biết cảnh tượng ở những nơi khác có giống như quãng
đường tôi đi qua hay không? Quân phục, quân trang, súng đạn nằm ngổn ngang đầy
đường. Có vài binh sĩ chỉ còn trên thân thể cái áo thung, quần xà-loỏng, chân
đất… thất thểu đi về một phương trời không nhất định! Tôi biết những người binh
sĩ đó không có gia đình ở Sài-gòn hoặc vùng lân cận. Tôi đã bừng giận khi thấy
vài nét mặt với ánh mắt khinh bỉ ném về những người binh sĩ vô phước đó! Tôi
cũng rất cảm động khi thấy có những người, đặc biệt là các bà cụ, đã đem quần
áo cũ tặng cho họ! Chỉ trong giây phút ngắn ngủi, tâm tình của tôi đã phải thay
đổi đôi lần vì chứng kiến cái cảnh đau lòng, không phải chỉ dành riêng cho các
binh sĩ đó, mà đó là hình ảnh thê thảm của dân tộc Việt Nam. Tôi quay đi với
đôi chân nặng trĩu, chiếc xe đạp tôi đang dắt trở nên cồng kềnh, tư tưởng cứ
mãi xoay quanh loại người chỉ biết lấy lợi danh làm lẽ sống nên tình cảm của họ
chỉ là cái bàn tính với nhiều cột số.
Loại người chỉ biết lợi danh đó đã tiếp tay đảng mafia
Việt cộng thật hữu hiệu trong chiến tranh, nay lại dẫn lối cho đảng mafia Việt
cộng thành công trong các chiến dịch đàn áp, bần cùng hóa nhân dân miền Nam như
“chiến dịch đánh tư sản mại bản, vùng kinh tế mới” v.v… cùng việc đặt nền móng
thống trị tại miền Nam Việt Nam. Chúng cũng đóng vai trò chỉ điểm đắc lực và
trở thành những “tà-lọt” cho các giới chức đảng mafia Việt cộng trong các cuộc
áp phe, môi giới… đủ mọi thứ thượng vàng hạ cám, miễn sao có tiền và chỗ dựa.
Giờ đây,
chúng cũng đã xuất hiện ở hải ngoại với những trò chơi mới có vẻ hiền hòa hơn
như: thi hành những chỉ thị ngầm của các tòa đại sứ đảng mafia Việt cộng; làm
ăn chia chác với các toà đại sứ trong các dịch vụ du lịch “hướng dẫn đồng bào
về thăm quê hương”; chuyển tiền về Việt Nam nhưng “ăn tiền đầu theo tỷ lệ %”.
Về giáo dục: Núp dưới chiêu bài báo chí để quảng bá chương trình giáo dục của
đảng mafia Việt cộng – theo cái kiểu “i ngắn, i dài” cho đúng với cung cách
viết của họ Hồ; thỉnh thoảng chọt vào một chuyện ngắn ca tụng, tán dương chế độ
đảng mafia Việt cộng là ưu việt, là đầy tình người đã giáo huấn được những tên
“ngụy” chuyên giết người thành người tốt!!! Tài giỏi hơn nữa là dưới sự lãnh
đạo của các “đỉnh cao trí tuệ Việt cộng”, nước Việt Nam ngày nay dùng phi cơ
“đi rải lúa… sạ”; đến mùa gặt thì “hàng nửa trăm chiếc máy gặt đập liên hợp màu
đỏ tươi, dàn ngang, cách đều trăm thước, cùng đồng loạt tiến vào biển lúa…”
(truyện ngắn Đêm Sao của Lý Lan đăng trên báo Diễn Đàn số 5, tháng 4-1999, phát
hành tại Luân Đôn, Anh Quốc). Chu choa, đọc thấy hồ hởi không phấn khởi tị nào…
vì muốn mù luôn cả đôi mắt, trí óc rối loạn lùng tùng phèng… bởi phải lẩm nhẩm
tính mãi mà không ra đáp số của bài toán: “Nửa trăm chiếc máy gặt đập màu
đỏ tươi, dàn ngang -x- cách đều trăm thước = tôi không hình dung
được”, đành phải nhờ con
cháu tính hộ mới có đáp số. Xin quí vị chuẩn bị thuốc để uống ngừa “heart
attack” trước khi đọc, là: 5000 thước đúng cái độ dài của ông Tứ Tượng (chồng
bà Nữ Oa) định cầy ở tam giác đồng bằng sông Hồng. Như vậy, nước Việt Nam ngày
nay còn giàu có hơn cả nước Cờ… Hoa – mặc dù đất đai của Việt Nam chỉ bằng 1/30
của nước Cờ Hoa; kỹ nghệ thì nước Cờ Hoa đã lên thăm Cung Hằng còn Việt cộng
thì đi xuống thăm Qủy Sứ dưới Địa Ngục, vậy mà cũng có máy bay “đi rải lúa… sạ”
– giàu thật – Có một điều đáng buồn là ông chủ bút tờ Diễn Đàn dấu không cho
biết: Nhờ vào đồng ngoại tệ nặng của bà con tị nạn cộng sản gởi về cứu đói cho
thân nhân, bè bạn cùng tiền đầu tư “xây dựng xã hội chủ nghĩa” của các vị coi
lương tâm là món hàng xa xỉ – nên cái chế độ mafia mới tồn tại để đè đầu cưỡi
cổ, bịt mắt, bịt mồm, bóp họng nhân dân Việt Nam; sản xuất loại truyện ngắn
kiểu tuyên truyền rẻ tiền mà ông chủ bút đã hồ hởi phấn khởi cho đăng lòe thiên
hạ. Có lẽ ông chủ bút và masters của ông ta cho rằng kiến thức của người Việt
hải ngoại quá bết nên đã múa gậy vườn hoang? Thật tội nghiệp cho những người vì
bã lợi danh trở thành “mù” mà không biết mình mù! Chưa hết, đảng mafia còn đang
dự trù “hai kế hoạch lớn, thực tiễn để đáp ứng tình hình hiện tại đòi hỏi”, và
sẽ phải thực hiện cho bằng được vì tầm mức quan trọng của nó, để những nhà giáo
dục của họ phổ biến rộng rãi vào tập thể người Việt tị nạn cộng sản ở hải
ngoại:
1. Đảng dự trù dùng phi cơ trực thăng chở
trâu, bò đi ăn cỏ, sáng đi chiều về;
2. Đảng cũng
dự trù lùa hết “khỉ” ở núi rừng miền Bắc và Trường Sơn về dạy ngôn ngữ Việt
cùng viết tiếng Việt theo “fương fáp kành kạch” của Hồ chí Minh, để chúng sớm
thành người vì đảng mafia phải chuẩn bị sẵn sàng thay thế những con khỉ già khi
chúng theo chân “bác” đi hầu hạ Mác-Lê; chứ “wait” chúng nó theo kiểu lý luận
của Mác thì phải mất đến 3 triệu năm. Lâu quá! Hoặc thỉnh thoảng cho đăng một
bài báo chống cộng nhưng khi đọc kỹ thì mới thấy là ca tụng tài đức của Hồ và
bè lũ v.v… Tạo ra những thần tượng chống cộng giả để vô hiệu hóa tinh thần đấu
tranh chống cộng của tập thể người Việt tị nạn ở hải ngoại! Và, nếu chúng ta
cẩn thận lưu ý thì sẽ phát hiện được loại người này cũng không khó khăn lắm.
* * * * *
Tôi đã may
mắn gia nhập tập thể tị nạn cộng sản định cư ở nước ngoài. Sau một thời gian
dài vật lộn với những khó khăn trong việc xây dựng lại cuộc đời, giờ đây cuộc
sống cũng đã ổn định. Cuộc sống đã ổn định không có nghĩa là mang những cái tên
Williams, Davis, Sylvia… Nước Việt Nam còn đó, gia đình, bè bạn còn kia và
lương tâm còn đây. Những cái “còn” là động lực thúc đẩy, không phải chỉ riêng
tôi, mà là cả tập thể người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại đã, đang và sẽ
tiếp tục theo đuổi con đường đấu tranh cho nước Việt Nam có được một nền dân
chủ, tự do thực sự; một nước Việt Nam mà những người lãnh đạo sau này phải có
tầm kiến thức tối thiểu về tôn trọng nhân quyền; một nước Việt Nam mà người dân
nhận thấy là của mình, đáng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ, chứ không
phải một nước Việt Nam mà già, trẻ, lớn, bé… kể cả “cây cột đèn” cũng muốn đi
như hiện tại. Đây không phải là giấc mơ mà là một thực tế đòi hỏi mọi người
phải chung vai xây dựng, nếu ai còn nghĩ mình là người Việt Nam với ước vọng
nhìn thấy đất nước vươn mình, xin đóng góp vào cuộc đấu tranh tùy theo khả năng
sẵn có của mình. Đất nước không bao giờ từ chối những sự đóng góp đáng quí và
hữu ích của mọi người công dân.
Vào những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi, người nông
dân Việt Nam ở các tỉnh Thái Bình miền Bắc, Đồng Nai miền Nam… đã can đảm đứng
lên đòi “quyền sống” dưới dạng thức “chống tham ô cửa quyền của tập đoàn đảng
mafia Việt cộng”. Biến cố đó vô cùng quan trọng vì nó báo hiệu bước khởi đầu
cho một cuộc cách mạng dân chủ tự do trong tương lai. Đọc lại lịch sử, Việt Nam
là một nước nông nghiệp, 90% người dân Việt Nam sống về nghê nông. Cứ mỗi lần
người nông dân đứng lên là một triều đại phải sụp đổ. Ngày nay, tuy ở vào thời
đại kỹ thuật, tin học… nhưng nước ta vẫn còn 70, 80% dân số sống về nghề nông
thì biến cố đó là tiếng chuông báo hiệu ngày tàn đối với chế độ mafia chẳng còn
bao xa. Có lẽ cũng hiểu được như vậy, bọn đầu lãnh tập đoàn đảng mafia Việt
cộng đang dùng hết quyền lực, bạo lực trong tay để đàn áp dập tắt sự chống đối
đó; cùng lúc bọn tay sai của chúng ở hải ngoại gia công ru ngủ tập thể chúng ta
bằng những luận điệu, lý luận… mới nghe thì như là một việc thông thường không
đáng quan tâm vì nước nào lại chẳng có những khó khăn; “chính phủ” cũng đã giải
quyết ổn thỏa bằng cách thỏa mãn mọi yêu cầu của người nông dân (?). Nhưng thực
tế thì khác hẳn, chúng cũng đã chuẩn bị con đường “chạy” bằng cách chuyển tiền
cho con cái của chúng đang sinh sống dưới hình thức “du học” ở hải ngoại, mua
tài sản, tạo cơ sở thương mãi; hoặc ở lậu v.v…! Chúng ta đã thấy một số cô
chiêu, cậu ấm… tuổi đời mới nứt mắt mà đã có trong băng hàng chục triệu đô, ăn
chơi thật đúng “mốt”, thật xứng danh là con cái của các trùm đảng mafia Việt
cộng!
Tại Âu-châu và diễn đàn Liên Hiệp Quốc, Phạm văn Đồng
và Đinh bá Thi đồng tuyên bố:
“Những người tị nạn Việt Nam – Đàn ông thì
trộm cướp – Đàn bà là đĩ điếm – Vì lười biếng lao động Xã Hội Chủ Nghĩa nên bỏ
nước ra đi”.
Sau đó, một loạt các giới chức cao cấp đảng
mafia trong nước cũng tuyên bố tương tự với báo chí quốc tế mỗi khi họ được
phỏng vấn.
Chúng ta nghĩ như thế nào và có còn nhớ
hay không về những lời tuyên bố đó?
Chắc cũng có người đã quên nên mới có cái
việc đem tiền và chuyên môn về “xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Hai nhà kinh tài tị
nạn cộng sản định cư ở Âu châu… phấn khởi mang tiền về đầu tư! Không biết làm
ăn, chia chác, mua chuộc, đút lót như thế “mô” để cuối cùng thì bị bắt, và tài
sản bị tịch thâu vì tội quá khứ của các vị này là… chống cộng! Rất may mắn, một
vị có lẽ giữ nhiệm vụ chạy áp phe phía bên ngoài nên không có mặt ở Việt Nam,
dĩ nhiên là không vướng vòng lao lý! Để chứng tỏ cho thiên hạ biết là họ luôn
luôn làm ăn hợp pháp và có sức mạnh pháp lý quốc tế hỗ trợ, ông liền mang “luật
sư quốc tế” về Việt Nam để tìm cách cứu bồ. Hành động của ông rất đáng được ca
ngợi vì nghĩa cử trung thành đối với bạn. Nhưng rất tiếc sự việc lại không xảy
ra như ý muốn vì ham lợi mà các ông quên rằng Việt cộng là một “tổ chức mafia
trang bị vũ khí lên tận răng; luật pháp của chúng là luật rừng; các trại tù
luôn luôn mở cửa…” Mỹ còn phải ngán… thì các ông thuộc loại nhằm nhò gì ba cái
lẻ tẻ. Vì vậy, không ai nghe đến cái kết quả cứu bồ của ông. Mọi sự đi vào êm
ru bà rù, ở tù thì vẫn cứ ở tù, chưa tù thì nên kiếm đường vù càng sớm càng hay!
Nếu tôi đoán không lầm thì cứ mỗi đêm, khi nằm yên trên giường nệm ấm chăn êm,
bắt tay lên trán suy nghĩ sự đời thì thấy buồn vì cái
công-lao-mồ-hôi-nước-mắt-dành-dụm-bao-năm, chỉ trong chốc lát, tất cả đều đổ
xuống… wc. Tiếc thật! Nhưng ông cũng còn hên là chúng đã không “chôm” ông. Đề
nghị ông mua nải chuối cúng tạ ơn ông địa và chờ cơ hội làm ăn keo khác!
Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận! Người dân miền
Bắc đã diễn tả về những con rận mafia này bằng cả một rừng thi phú văn chương.
Ở đây, tôi xin phép mượn câu thơ: “Sửa sai rồi lại sửa sai – Sai thì cứ sửa,
sửa thì cứ sai”. Có lẽ cho rằng người tị nạn cộng sản ở hải ngoại chưa biết cái
màn này, nên các đầu lãnh mafia đem cái mứng này ra xử dụng. Đồng, Thi… đã mạt
sát người tị nạn cộng sản ở hải ngoại thì làm cách gì để “sửa sai”? Lợi dụng
chính sách “đổi mới, mở cửa”, bọn đầu lãnh mafia âm thầm “sửa sai” bằng cách
cho ban nhạc chơi điệu valse lả lướt, ve vuốt và thay đổi cách gọi người Việt
tị nạn cộng sản ở hải ngoại. Cái “đểu” nhất của cách gọi này là Đỗ Mười đã gọi
chúng ta: “Khúc ruột xa ngàn dặm”. Bởi
vì, “khúc ruột xa là khúc ruột dài… là đại tràng ở phần cuối… tức là nơi chứa…
cứt.” Vậy mà cũng có người hý hửng, tưởng bở cho là đảng mafia đã tỏ tình anh
em hoặc chính trị hơn: đảng mafia tỏ thái độ hòa giải hòa hợp. Đồng thời, chúng
còn nghĩ chúng ta là: Khúc ruột đẻ ra đô la bay xa ngàn dặm… Chỉ cần úm-ba-la
đôi ba lời gọi thì đô la bay vào đầy túi của chúng ngay, tội gì không chơi! Một
công đôi việc – đề huề và vui vẻ cả làng – tôi hốt đô la – anh về thăm gia
đình, bè bạn và có chỗ ăn chơi xả láng kiểu “nhất dạ đế vương”, chung vốn làm
ăn với chúng tôi v.v… Và, nếu chúng tôi có nổi cơn hứng chôm và tịch thâu tài
sản của các anh thì ráng mà chịu, vì đó không phải là lỗi của chúng tôi, mà lỗi
của cái gọi luật rừng. Đó chỉ là vấn đề có tính cách “xỉu xỉu”, còn vấn đề “đại
đại” thì cần phải thử phổi bọn “ngụy” xem phản ứng của chúng ra sao! Trần
Trường treo cờ “đỏ như máu với ngôi sao vàng… khè” và hình khô lâu lão quái Hồ
chí Minh ở Los Angeles xem bà con “ngụy” welcome như thế nào? Bà con “ngụy” đã
chào đón khô lâu lão quái Hồ chí Minh thật tận tình. Khởi đầu vài chục tên
“ngụy”, lên vài trăm, vài ngàn và vài chục… ngàn! Với rừng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và
biểu ngữ đả đảo cũng xôm tụ! Đồng chí, đồng chóe đành phải thụt vòi. Bọn mafia
tự bảo với nhau rằng: “Đừng lo, thua keo này bày keo khác vì sư tổ "khô lâu lão
quái Hồ Chí Minh đã truyền lại cho chúng ta ‘bửu bối’ – Sai thì cứ sửa, sửa thì
cứ sai!”
Hôm nay cũng tháng tư, nhưng tháng tư của năm 2000,
nghĩa là hai mươi lăm năm đã qua. Hai mươi lăm năm với bao thay đổi, khổ đau mà
dân tộc ta vẫn gánh chịu. Tiền đề: độc lập, tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc…
là dành riêng cho lũ chóp bu đảng mafia Việt cộng và gia đình của chúng; ai đòi
hỏi hoặc đụng vào thì sẽ có “luật rừng” của chúng đối phó. Dân tộc Việt Nam
cũng có những ước vọng như bao dân tộc tiến bộ khác trên thế giới, và đã phải
trả giá quá đắt bằng xương máu… nhưng vẫn hoàn tay trắng bởi một bọn người vong
bản đang tạm thời lãnh đạo đất nước. Tuy nhiên, dù có nhiều khó khăn nhưng
không có nghĩa là tuyệt đường hy vọng, miễn là đừng để mất niềm tin và can đảm
đối diện với kẻ thù. Những thế hệ trước đã để lại tấm gương đấu tranh trong
sáng ở thế kỷ qua, thì thế kỷ này chúng ta sẽ là những người tiếp nối cho đến
ngày thành công.
Hôm nay là tháng tư, tôi hình dung nhớ lại những gương
mặt trong cái quán cà-phê nhỏ bé của một buổi sáng hai mươi lăm năm về trước.
Một số người đã về với lòng đất mẹ từ các trại tù cải tạo, trong đó có anh bạn
của tôi nói câu: “Tao không biết cuộc đời của tụi mình sẽ đi về đâu?” – Một số
ngủ yên dưới lòng biển động – Một số định cư ở hải ngoại trong đó có tôi. Còn
anh bạn của tôi nói câu: “Chiến tranh đã kéo dài gần hai mươi năm. Bây giờ
mới thực sự hòa bình!” – đang sống cuộc đời vất vưởng với đôi mắt gần mù
lòa, thân thể bị liệt một bên vì hậu quả của những trận đòn tra tấn và gần 12
năm tù không lý do. Còn bà chủ quán cà phê cũng đã qua đời sau trận đánh “tư
sản mại bản” của những người “anh em phía bên kia”. “Biết ra sao ngày sau”, bây
giờ thì mọi người đều biết! Lời hẹn gặp lại nhau ở một ngày thích hợp và vui
tươi hơn không bao giờ thành! Xin kính tặng lời hẹn đó cho quê hương đất nước
và những thế hệ đi sau. Hôm nay, tôi viết những giòng này, dù hiểu rằng những
người được đề cập trong bài sẽ không bao giờ có cơ hội được đọc. Nhưng tôi cứ
viết, viết để giải tỏa tấm lòng và thể hiện tâm tư, tôi vẫn luôn nhớ đến những
người bạn vào buổi sáng ảm đạm đó của lịch sử: NGÀY 30-4-1975!
--------------------
Biển Ðông 75
30.4.2017
No comments:
Post a Comment