Saturday 19 December 2009

Viet su - bài 1


Việt Nam sử lược

Biển Ðông
Ngày 26/11/2009


Biển Ðông nhận thấy việc quảng bá lịch sử đất nước Việt Nam chúng ta là một việc cần làm trong bối cảnh hiện nay. Vì thế, Biển Ðông sẽ cố gắng phổ biến hai quyển “Việt Nam sử lược” do Cụ Trần Trọng Kim biên soạn và được Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VNCH xuất bản từ năm 1971. Ðược nhà sách Ðại Nam ở Cali/USA tái xuất bản nhiều năm trước đây. Biển Ðông sẽ phổ biến từng bài 2 hoặc 3 trang đánh máy, mỗi tháng 2 kỳ trên Blog Biển Ðông, khởi đầu từ bài “Nước Việt Nam”. Biển Ðông xin Quí vị thứ lỗi vì không phổ biến “Lời Tựa”; và không có chữ “nho” như trong sách – vì Biển Ðông không biết chữ… nho.


Bài 1:
Nước Việt Nam1. Quốc-hiệu
2. Vị-trí và diện-tích
3. Ðịa-thế
4. Chủng loại
5. Gốc-tích
6. Người Việt-Nam
7. Sự mở-mang bờ-cõi
8. Lịch-sử Việt-Nam

1. Quốc-hiệu
Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2897-258 trước Tây lịch) gọi là Văn-Lang, đời Thục An-dương-vương (257-207 tr. Tây-lịch?) thì gọi là Âu-lạc. Ðến nhà Tần (246-206 tr.Tây-lịch?) lược định phía Nam thì đặt làm Tượng-quân, sau nhà Hán (202 tr. Tây lịch 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng-quân ra làm ba quận là Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam. Ðến cuối đời nhà Ðông-Hán, vua Hiến-đế đổi Giao-chỉ làm Giao-châu. Nhà Ðường (618-917) lại đặt là An-nam Ðô-hộ-phủ.

Từ khi nhà Ðinh (968-980) dẹp xong loạn Thập-nhị Sứ-quân; lập nên một nước tự-chủ, đổi quốc hiệu là Ðại-cồ-việt. Vua Lý Thánh-tông đổi là Ðại-Việt, đến đời vua Anh-tông, nhà Tống bên Tàu mới công nhận là An-nam quốc.

Ðến đời vua Gia-long thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An-nam, Việt là Việt-thường mới đặt quốc-hiệu là Việt-nam. Vua Minh-mệnh lại cải làm Ðại-nam.

Quốc-hiệu nước ta thay đổi đã nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An-nam, nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần phục nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định lấy tên Việt-nam mà gọi nước nhà.

2. Vị-trí và diện tích

Nước Việt-nam ở về phía đông-nam châu Á-tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra, khúc giữa miền Trung thì eo hẹp lại.

Ðông và Nam giáp bể Nam-hải; Tây giáp Ai-lao và Cao-miên; Bắc giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây và Vân-nam.

Diện tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:

Bắc-việt : 105.000 km2
Trung-việt : 150.000 km2
Nam-việt : 57.000 km2

3. Ðịa thế

Nước ta hiện chia ra làm ba cõi: Bắc-việt, Trung-việt và Nam-việt. Ðất Bắc-việt có sông Hồng-hà (tức là sông Nhị-hà) và sông Thái-bình. Mạn trên gọi là Thượng du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung-châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.

Ðất Trung-việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Tràng-sơn chạy dọc từ Bắc Việt vào gần đến Nam-việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.

Ðất Nam-việt thì ở vào khúc dưới sông Mê-kông (tức là sông Cửu-long), lại có sông Ðồng-nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân gian trù phú và dễ làm ăn hơn cả.

4. Chủng-loại

Người Việt-nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thượng-du Bắc-việt thì có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung-việt thì có dân Mọi, và Chàm, (tức là Hời), ở về miền Nam-việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà-và và Khách, vân vân. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả non một triệu người. Còn thì dân tộc Việt-nam ở hết cả.

Số người Việt-nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:

Bắc-việt : 8.700.000 người
Trung-việt : 5.650.000 người
Nam-việt : 4.616.000 người

Cả thảy cọng lại được độ chừng 19 triệu người. (Số này là theo sách Ðịa-lý của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc là đúng số nhất định của người mình).

5. Gốc-tích
Theo ý-kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt-nam và người Thái đều ở miền núi Tây-tạng xuống. Người Việt-nam theo sông Hồng-hà lần xuống phía đông-nam, lập ra nước Việt-nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm-la (tức Thái-lan) và cả nước Lào.

Lại có nhiều người Tàu và người Việt-nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam-miêu ở, sau giống Hán-tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía tây-bắc đến đánh đuổi người Tam-miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng-hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam-miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt-nam ta bây giờ.

Những ý-kiến ấy theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt-nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao-chỉ, mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loại riêng, chứ không phải là loài Tam-miêu.

Dẫu người mình thuộc về chủng loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang cai trị hàng hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là nòi giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt-nam ngày nay.

6. Người Việt-Nam

Người Việt-nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm-ngăm đen, người nào nhàn -hạ phong-lưu. ở trong nhà luôn, thì nước da trăng-trắng như màu ngà cũ.

Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn-lẳn con người, chứ không to béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều mà dài, đen và hơi cứng. Dáng-điệu đi-đứng thì nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc chắn.

Áo-quần thì dài rộng, đàn-ông thì búi tóc và quấn khăn vành rày, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Ðàn-bà ở Bắc-việt và phía Bắc Trung-việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành-thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ÿ phía Nam Trung-việt và Nam-Việt thì đàn bà mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt-nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Ðại-khái thì trí-tuệ minh-mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sang dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tình vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài-bác nhạo-chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa-bình, nhưng mà đã đi trận-mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ-luật.

Tâm-địa thì nông-nổi, hay làm liều, không kiên-nhẫn, hay khoe-khoang và ưa trương-hoàng bề ngoài, hiếu danh-vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỉ, sùng sự lễ-bái, nhưng mà vẫn không nhiệt-tín tông-giáo nào cả. Kiêu-ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Ðàn-bà thì hay làm lụng và đảm-đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia-đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức-tính rất quí là tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt-nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng (tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ-âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi).

7. Sự mở mang bờ cõi

Người nòi-giống Việt-nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía Bắc thì đã có nước Tàu cường-thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm-ấp, dứt Chiêm-thành, chiếm đất Chân-lạp, mở ra bờ cõi bây giờ.

8. Lịch-sử Việt-Nam

Từ khi người Việt-nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai-trị mấy lần, chịu khổ-sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự-chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc-biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí-lực của người mình không đến nỗi kém-hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẻ-vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy-vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường-thịnh.

Vậy ghi-chép những cơ-hội gian-truân, những sự biến cố của nước mình đã trải qua, và kể những công việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt-nam sử.

(Còn tiếp)

Bài sau: Họ Hồng Bàng


Trở lại Trang Sử Việt


Biển Ðông

No comments:

Post a Comment