Sunday 9 May 2010

Tuong niem quoc han

Tưởng Niệm Quốc Hận 30-4-1975:
Ôn Cố Tri Tân


Lệ Tuyền






Trở lại Trang Quan điểm thời sự



Hàng năm, cứ đến những ngày trước ngày 30-4, chúng ta lại thấy xuất hiện trên các trang báo với những bài viết về ngày Quốc Hận: 30-4-1975. Các bài viết đa số là giống nhau như chỉ nói đến những cái chết trong các nhà tù « cải tạo » những đau thương, tù đày, vượt biên, vượt biển. Chỉ một số ít tác giả đã vạch mặt, chỉ tên của những kẻ đã từng nhúng tay vào tội ác, từng tiếp tay với giặc, mà hệ quả là ngày Miền Nam Tự Do đã rơi vào bàn tay của bọn việt-gian-cộng-sản.

Trước đây, tôi đã viết bài: 30-4-1975: Máu Và Nước Mắt. Qua bài này, tôi đã viết về những gì mà chính tôi đã chứng kiến. Hôm nay, tôi không lập lại những điều ấy, mà để quý độc giả biết thêm về những tổ chức và những tên gian manh, chúng đã từng tiếp tay với bọn việt-gian-cộng-sản, trong suốt thời gian từ những năm đầu của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, cho đến ngày nước mất nhà tan.

Khi nhắc đến miền Nam tự do, thì không có ai có thể phủ nhận được rằng: Kể từ ngày Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm khai sinh ra Thể Chế Cộng Hòa, và dưới ánh sáng mới, người dân của miền Nam đã được sống trong những cảnh Thanh Bình-Tự-do-An Cư-Lạc-Nghiệp. Chỉ những tên cộng sản nằm vùng hoạt động hợp pháp dưới những lớp áo Sư-Cha-Trí Thức … để hoạt động trong cái tổ chức do cộng sản Hà Nội đẻ ra là « Mặt Trận giải Phóng Miền Nam ». Những kẻ này, sau ngày 30-4-1975, bọn chúng đã được sự chỉ đạo của Hà Nội, nên chúng đã trở thành những « nhà đối lập – đấu tranh nhân quyền … v… v… »

Thế nhưng, xin mọi người hãy bình tâm suy nghĩ lại thử xem, những kẻ này cứ sau một thời gian hô hào « tranh đấu, » rồi « ở tù, ra tù »; song rồi tất cả cũng phải lòi ra cái bản chất thật của chúng. Tuy vậy, chúng cũng đã lôi kéo thêm được nhiều người cùng nhập vào cùng băng đảng. Chính lũ này, một lũ đã từng dùng những lưỡi gươm, ngọn giáo, để đâm xoáy vào phía sau lưng của các Anh Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, trong khi các Anh đang từng ngày, từng đêm xuyên rừng, lội suối, cận kề với cái chết, để Bảo Quốc An Dân.

Nhưng giờ đây, đứng trước những trò gian manh lừa bịp của chúng, qua những trò đối lập, dân chủ cuội. Vì thế, tôi không thể im lặng, và nếu vì sự giới hạn của một bài viết, tôi không thể nói hết, thì tuần tự tôi sẽ nêu lên thật đầy đủ về những tổ chức và những tên đã một thời làm tay sai, hoặc đã từng là những đảng viên của đảng-việt-gian-cộng-sản, để đồng bào ở trong và ngoài nước đều được biết, điển hình như những kẻ sau đây:

Những kẻ đã công khai đánh phá để lật đổ Thể Chế Cộng Hòa tại Miền Nam Tự Do:

Một tổ chức, mà gần như được mọi người biết đến, là những kẻ đã đồng chủ xướng để lật đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 11-11-1960. Người đứng đầu của cái tổ chức này là « ông » Luật sư Hoàng Cơ Thụy, là anh của Hoàng Cơ Minh, người đã từng cầm đầu băng đảng Việt Tân, là hậu thân của băng đảng Hoàng Cơ Minh.

Ngược thời gian trở về những năm đầu của thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Kể từ sau ngày 20-7-1954, đồng minh Hoa Kỳ đã từng cam kết sẽ bảo vệ miền Nam Việt Nam, là tiền đồn của thế giới tự do, để không cho miền Nam bị rơi vào tay của cộng sản Hà Nội. Nhưng rồi vào tháng 3 năm 1960, một “ thương gia” người Mỹ tên Gouder thuộc hãng buôn American Trading, cũng đã từng chi cho một người Việt với số tiền là 500, 000 ( năm trăm ngàn đồng ) sau đó, người này đã trao cho ông Nguyễn Văn An 50, 000 ( năm mươi ngàn đồng) rồi lừa gạt ông Nguyễn Văn An, là cựu Trung sĩ Bảo Chính Đoàn, sau khi di cư vào Nam, binh chủng này cải danh thành Bảo An Đoàn ở tại Thủ Đức, ông có vợ và hai con, vì lòng chân thật nên ông An đã tin lời tên này, ông đã đi xuống tận khu định cư Cái Sắn và Đại Hải, để tìm được khoảng hơn năm mươi người, và đã nói láo với họ là “ lên Sài Gòn để nhận việc làm ở sỡ Mỹ”, để sau đó, người đã nhận tiền của Gouder lại tung tin: “Cuộc biểu tình của đồng bào Công Giáo di cư ở trại định cư Cái Sắn và Đại Hải chống chính phủ Ngô Đình Diệm”, nhưng rồi tất cả đã không qua được cặp mắt của Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, nên mọi việc đã bị đổ vỡ. Vì thế, vào ngày 29-4-1960, một số người đã họp nhau và đã có một quyết định khác, do đó, mới có cuộc họp tại nhà hàng Caravelle ở đường Tự Do, Sài Gòn, có một số báo chí tham dự. Và sau đó là cuộc “đảo chánh” vào ngày 11-11-1960, nên thường được gọi là “Vụ án Caravelle”. Trong số này, có tên cựu Đại tá Vương Văn Đông, là người thân trong gia đình của Hoàng Cơ Thụy. Nhưng cuộc đảo chánh bất thành, vì ngoại nhân đã sai bảo cho Hoàng Cơ Thụy chỉ được làm đến đó, để gây áp lực với Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà thôi. Sau đó, cả Hoàng Cơ Thụy và Vương Văn Đông sang Pháp, thì mọi người không thấy bóng dáng của Vương Văn Đông. Cho đến « Ngày Hoàng Sa » tại Paris, thì người ta bỗng thấyVương Văn Đông xuất hiện bên cạnh những tên gian manh như: Bùi Tín, Vũ Thũ Hiên, Võ Nhân Trí, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Ngọc Bích … v…v… Nên nhớ, Vương Văn Đông là người đầu tiên đã phổ biến tài liệu của « Cao trào Nhân Bản » của tên việt gian Nguyễn Đan Quế.

Nói tóm lại, là tổ chức «Vụ án Caravelle » là làm theo thỏa thuận thuê mướn của ngoại nhân, để chỉ làm đến đó mà thôi, chứ không hề có cái gọi là « Cách Mạng » như đám này vẫn thường tự khoe khoang, chỉ những người thiếu hiểu biết, mới nghe những lời vọng ngữ của tổ chức này.

Phong Trào áo trắng Trong Lòng dân Tộc:

Vào ngày mùng một Tết Tân Sửu ( 1961 ). “Lễ ra mắt Quân Giải phóng miền Nam” tại khu rừng già Tây ninh. Tên việt-gian Nguyễn Văn Linh đã “Trao cờ lệnh, cờ Mặt trận giải phóng miền Nam, cho tổ chức “Phong Trào Áo Trắng Trong Lòng Dân Tộc”. Những người lên nhận cờ là Bác sĩ Võ Cương, Dược sĩ Phạm Thị Yên, Dược sĩ Mã Thị Chu, y tá Nguyễn Thị Xoa và Nguyễn Đan Quế, đại diện cho sinh viên y khoa. Tổ chức này dưới sự “hướng dẫn” của nữ Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa vốn là đảng viên cộng sản Pháp, hoạt động tại Sài Gòn với chức “phó chủ tịch nghiệp đoàn thầy thuốc Việt Nam. Tháng 4-1968, Dương Quỳnh Hoa đã ra vùng giặc, và là “Ủy viên trung ương liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam – Bộ trưởng y tế chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam” của đảng việt-gian-cộng-sản.

Trong suốt thời gian trước 30-4-1975, chính bệnh viện Grall của Pháp tại Sài Gòn, đã được sự sắp xếp của tôt chức “Áo trắng trong lòng dân tộc” để cho những tên “biệt động thành, đặc công” và cán bộ nằm vùng của bọn việt-gian-cộng-sản mỗi lần bị thương, hay bị bệnh đều được nằm điều trị một cách an toàn. Danh sách của những tên đã từng tham gia vào tổ chức “Áo trắng” rất nhiều, nên tôi không thể ghi chép hết vào ở đây, song có thể tôi sẽ viết ở một bài khác.

Nên biết, hiện nay, Linh mục Nguyễn Văn Lý đã và đang phục hồi tổ chức “ Áo trắng trong lòng dân tộc”, bởi tên cầm đầu Nguyễn Đan Quế.

“Lực Lượng Thiên Chúa Giáo Tiến Bộ”:

Cái gọi là “ Lực lượng Thiên Chúa Giáo tiến bộ” ra đời vào năm 1957, đã hoạt động một cách hợp pháp dưới nhiều danh xưng khác nhau. Từ năm 1957 đến 1960, “Lực lượng” này đã cho ra báo “Thông cảm” do sinh viên Thiên Chúa Giáo phụ trách. Năm 1962, có tờ “Sống Đạo” rồi đến các nhóm “Thẳng Tiến - Thanh-Lao-Công”. Năm 1967, nhóm này xuất bản hai cuốn sách: “Hòa bình cho con người” do “Linh mục” Trương Bá Cần, Trương Đình Hòe, Hồ Đỉnh soạn và “Tìm vế Dân Tộc” của Lý Chánh Trung.

Tháng 7-1969, sau khi tuần báo “Sống Đạo” bị đình bản, nên để tiếp nối các “Linh mục” Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị cho ra đời nguyệt san “Đối Diện”. Tờ “Đối Diện” sau 10 số, đến số 11 và 12 đã bị tịch thu. Nói tóm lại, là “Lực lượng Thiên Chúa Giáo tiến bộ” là một trong những tổ chức ngoại vi của bọn việt-gian-cộng-sản.

Phật Giáo Ấn Quang:

Cho đến hôm nay, và mãi mãi, dù có ngụy biện đến cách nào chăng nữa, thì Phật Giáo Ấn Quang, cũng không bao giờ rửa sạch được những vết máu của hàng ngàn lương dân vô tội, đã chết dưới những bàn tay của băng đảng Phật giáo Ấn Quang, còn có tên khác là: “Việt Nam Phật giáo Xã Hội Đảng”.

Chúng ta chẳng cần nhìn đâu xa, mà chỉ cứ nhìn thẳng vào Thích Đôn Hậu: “Đệ tam Tăng thống” của Phật giáo Ấn Quang, với những “ thành tích” vấy máu đồng bào, bất kể nam-phụ-lão-ấu vào cuộc thảm sát Mậu Thân, 1968, tại cố đô Huế. Chính “công lao dâng đảng” này, nên Thích Đôn Hậu đã được bọn việt-gian-cộng-sản trao gắn cho những “huân chương, Huy chương” như:

“ Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc Lập, Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân”.

Kính mời quý độc giả hãy đọc lại bài: Tưởng Niệm Bốn Mươi Năm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân: 1968-2008, vẫn còn lưu giữ trên trang điện báo: Hồn Việt: honviet.co.uk để hiểu được những bàn tay đẫm máu đồng bào của Thích Đôn Hậu, và của Thích Trí Dũng, mà chính y đã từng viết lại những hành vi cộng sản qua sách báo với tựa đề “ Tài Trí Việt Nam -Người xây dựng Nam Thiên Nhất Trụ tức Chùa một Cột tại miền Nam”.

Tại sao bà Trần Thị Lệ đã đặt tên cho con gái là Lê Thị Công Nhân?

Từ thuở xa xưa, người Việt Nam, dù là vua quan cho đến bần dân lê thứ, mỗi khi sanh con, họ đều có những ước vọng riêng cho các con của họ.

Như chúng ta đã biết Quốc Tổ của chúng ta là Hùng Vương cho đến vị vua cuối cùng, mặc dù chẳng làm được một công ích gì cho đất nước, nhưng cũng có niên hiệu là Bảo Đại.

Còn nói chung, thì hầu hết, người Việt Nam chúng ta, đều đặt kỳ vọng vào đứa con mới chào đời của mình bằng những cái tên, nếu con trai thì: Hùng, Dũng, Công, Đức, Trung, Chính, Nghĩa … v… v… Nếu là con gái thì: Thùy Mị, Đoan Trinh … hay lấy tên các loài chim, loài hoa để đặt tên cho con gái của mình.

Riêng bà Trần Thị Lệ, thì đã không chọn những cái tên như mọi người, mà đã đặt tên cho con gái của bà là Công Nhân. Một cái tên không có vẻ gì là con gái, mà nếu chỉ nghe qua cái tên, thì cứ tưởng đó là tên của một người phu khuân vác, lao động chân tay.

Vì trong suốt thời gian qua, kể từ lúc Lê Thị Công Nhân mới “ra tù” thì đã có quá nhiều bài viết cũng như thơ-ca của những cây bút tại hải ngoại đã ca tụng, bênh và chống, nên tôi cũng không thể ghi chép hết.

Tuy nhiên, tôi phải đề cập đến những bài kinh đã ca tụng Lê Thị Công Nhân như: Bùi Tín, thì gọi “Lê Thị Công nhân là hạt Ngọc … Hành quý …” và còn những câu kinh khác như: “Nhị kiều nước Nam … v…v…

Tôi đã theo dõi nhiều các trang báo, nên đã thấy ngay trên trang của Việt Tân, đã trịnh trọng với cái tựa đề: “Nghiêng Mình, Kính Ngưỡng Anh Thư Lê Thị Công Nhân”.

Vậy, trước khi nói đến nguyên do, mà bà Lệ đã đặt tên cho con, tôi lại phải diễn đạt cho đúng với cái ý của cái câu kinh trên của băng đảng Hoàng Cơ Minh, tức Việt Tân như sau:

Kính mời quý độc giả hãy cùng tưởng tượng cả băng đảng Việt Tân và những tên tay sai bồi bút, chúng đều không dám đứng thẳng người để nhìn Lê Thị Công Nhân, vì là “Thánh nữ”. Vì thế, bọn chúng đã phải: Nghiêng Mình, tự ngã rạp người xuống một bên, rồi mới dám: Kính Ngưỡng, tức Cung Kính Nhìn Lên “Thánh nữ”. Nhưng chẳng hiểu có phải vì biết có đảng Việt Tân và lũ tay sai đã và đang: “Nghiêng Mình, kính Ngưỡng ” nên sau khi “ra tù”, thì Lê Thị Công Nhân cứ mỗi lần đi đâu, kể cả khi đi vào nhà thờ cũng không mặc quần, mà chỉ thích mặc váy…

Tiếc rằng, tôi không có thời gian để vẽ thành một bức tranh, để minh họa cho mọi người thưởng lãm hình ảnh của một lũ “người” đang “Nghiêng Mình rồi mới dám “kínhNgưỡng” từ phía dưới ống trong chiếc váy của Lê Thị Công Nhân. Tôi chắc, nếu quý vị có óc tưởng tượng, thì sẽ hình dung ra được cái màn: “Nghiêng Mình, Kính NgưỡngAnh Thư Lê Thị Công Nhân” này, nó thiệt là vui lắm đấy… Nào, hãy tưởng tượng đi, vui không quý vị???

Trở lại với cái tên Lê Thị Công Nhân, mà bà Trần Thị Lệ đã đặt cho con gái của mình:

Sau khi Cụ Việt Thường đã tiết lộ Lê Thị Công Nhân là con ruột của tên Đại việt gian Lê Đức Anh. Chính vì vậy, nên tôi cũng phải cố tìm thêm những nguồn tin khác. Và, rất may, vì tôi cũng đã tìm ra được manh mối như sau:

Theo một nguồn tin riêng, thì khi đã mang thai đứa con đầu lòng với Lê Đức Anh, bà Trần Thị Lệ vốn là một đảng viên cộng sản, đã từng có công cả với đảng, mà còn có công … hộ lý cho Lê Đức Anh, nên khi bà Lệ tỏ ý muốn ra Hà Nọi để viếng “Lăng Bác”, thì Lê Đức Anh cùng mấy tên đàn em thân tín đã sắp đặt cho một chuyến “vi hành” cùng với bà Lệ.

Khi ra Hà Nội, sau khi viếng “Lăng bác”, Lê Đức Anh đã đưa bà Trần Thị Lệ đi thăm Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lúc này đã đổi tên thành: “Rạp Công Nhân”. Bà Lệ đã say sưa nhìn những vẻ đẹp cổ xưa của một kiến trúc kiểu Âu Châu, lại còn thêm cái tên mới là “Rạp Công Nhân”. Công Nhân, là giai cấp lãnh đạo. Vì vậy, bà Lệ đã quyết định đặt tên cho con là Công Nhân, dù là trai hay gái. Lê Đức Anh cũng thấy hợp với lòng của mình, nên cả hai đã đồng ý với cái tên: Công Nhân.

Từ Nhà hát lớn Hà Nội đến Rạp Công Nhân:

Nhà hát lớn Hà Nội, có tên đầu tiên là: Palace, được khởi công xây dựng vào ngày 07-06-1901. Hoàn thành vào năm 1911, theo phiên bản nhỏ của Opéra Garnier Paris, do các kiến trúc sư người Pháp: Broyer, Harlay. Phụ trách thi công chính là: Travary và Savelon.

Buổi chiếu phim đầu tiên vào đêm 22-9-1924. Sau năm 1954 đổi thành “Rạp Công Nhân”. Năm 1995 đổi thành “Nhà hát kịch Hà Nội”. Năm 2000, đã chính thức lấy lại tên cũ là: “ Rạp Công Nhân” tọa lạc tại số 42, Tràng Tiền, Hà Nội.

Ngoài ra, bọn việt-gian-cộng-sản cũng đã cho xây dựng thêm “Rạp Công Nhân” tại số 111, Cầu Đất, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

Tại miền Nam, cũng đã có “Rạp Công Nhân” tại số 30, đường Trần Hưng Đạo, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Sài Gòn.

Để quý độc giả đều thấy được cái tên “Công Nhân” đang có ở Việt Nam, nhân đây, tôi xin đưa vào bài viết với tấm hình của cái “Rạp Công Nhân” và nghe nói bọn việt-gian-cộng-sản sẽ còn xây dựng thêm những “Rạp Công Nhân” khác nữa, mà chính Lê Thị Công Nhân đã và đang khôi phục lại: “Công Nhân-Giai cấp lãnh đạo”.

Vì quá ít thời gian, nên tôi chưa có đủ những hình ảnh, song tôi sẽ cố gắng để cống hiến quý độc giả thêm với những hình ảnh mới của “Rạp công Nhân” tại Hà Nội và Sài Gòn, và các nơi khác.

Nhà Hát lớn Hà Nội. Sau 1954 đã đổi tên thành “Rạp Công Nhân”: Nơi từng lưu dấu bước chân “vi hành” của Lê Đức Anh và bà Trần Thị Lệ, lúc mang thai Lê Thị Công Nhân.
“Rạp Công Nhân”, tại số 111, Cầu Đất, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

Tại sao ngụy quyền Hà Nội vẫn chưa sụp đổ?

Người dân của miền Nam, đã từng chứng kiến, từng sống trong Thể chế Cộng Hòa trong tự do, nhưng cũng chỉ kéo dài không quá hai mươi năm. Tôi nói miền Nam tự do, bởi nếu không có tự do, thì làm sao Nguyễn Đan Quế lấy cớ đi tu nghiệp tại Pháp, vào năm 1968 đến 1974, để thành lập ra cái tổ chức “Hướng Về Đất Việt”, rồi sang Anh, sang Bỉ, để hô hào phản chiến, đòi Mỹ phải rút quân, nhưng khi trở về nước, Nguyễn Đan Quế vẫn không hề bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa làm khó dễ, để rồi đến ngày 30-4-1975, Nguyễn Đan Quế và Đoàn Viết Hoạt đã kéo cả đoàn sinh viên, học sinh, tay cầm cờ ngũ sắc của Phật giáo, tay cầm cờ của “Mặt trận giải phóng miền Nam” để đi đón rước cộng quân vào Thủ đô Sài Gòn.

Mặc dù thế, nhưng đã có rất nhiều người, trong đó có Linh mục Nguyễn Văn Lý cũng đã cam tâm làm tay sai cho tên việt gian Nguyễn Đan Quế. Bằng chứng là Linh mục Nguyễn Văn Lý đã giới thiệu những Lê Lợi, Lê Lai và Nguyễn Trãi, là những tên đã có trong “Tài Liệu Tuyệt Mật” của “Cao Trào Nhân Bản”. Nên biết, Nguyễn Đan Quế và cái gọi là “Cao Trào Nhân Bản” là tổ chức ngoại vi của bọn việt-gian-cộng-sản.

Tại hải ngoại, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, bây giờ là băng đảng Việt Tân, nhóm “Cao Trào Nhân Bản”, chú phỉnh Nguyễn hữu Chánh… và lũ tay sai đã và đang giở nhiều trò bịp bợm, khủng bố lộ liễu, sau khi lừa gạt tiền và niềm tin của mọi giới trong tập thể người Việt tỵ nạn VGCS. Vì thế, nhằm gây dựng lại niềm tin, thống nhất ý chí để hỗ trợ đồng bào trong nước đứng lên lật đổ ngụy quyền VGCS đang nắm quyền cai trị trong nước, thì quả là một nan đề.

Tạm thay lời kết:

Người Việt tỵ nạn bọn việt-gian-cộng-sản tại hải ngoại, có lẽ nào đã quên đi những hành vi khủng bố, giết người lương thiện, cộng với những màn lừa bịp niềm tin và tiền bạc của đồng bào, với “Mười ngàn kháng chiến quân” vào những năm của đầu thập niên năm 1980. Bọn Hoàng Cơ Minh đã từng lừa bịp cả những cụ già đang sống nhờ vào tiền trợ cấp, khi chúng đã “Phát động chiến dịch Một vỉ thuốc cho kháng chiến quân”. Kính mời quý độc giả hãy đọc lại những bằng chứng lừa bịp này qua loạt bài: Vạch Mặt Bọn Cộng Sản Gian Manh Đang Núp Bóng Người Quốc Gia Tỵ Nạn.

Nhưng chỉ nói đến băng đảng Hoàng Cơ Minh, thì chưa đủ; bởi tên việt gian Nguyễn Đan Quế cũng từng thành lập và cầm đầu tổ chức “Hướng Về Đất Việt”, là tiền thân của tổ chức “Phật Tử Hướng Việt” hiện nay.

Sau ngày 30-4-1975, bạo quyền Hà Nội đã tô điểm cho Nguyễn Đan Quế thành người tù tới gần 30 năm. Và Nguyễn Đan Quế cũng đã thành lập ra băng đảng “Cao Trào Nhân Bản” là một tổ chức ngoại vi của Hà Nội. Nguyễn Đan Quế cũng đã từng kêu gọi “Quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải” với bọn việt-gian-cộng-sản.

Chính vì vậy, chỉ có những kẻ ngây thơ, nếu không muốn nói là ngu xuẩn mới có thể tin những gì do hai băng đảng Hoàng Cơ Minh và băng đảng Nguyễn Đan Quế nói, mà hãy nhìn thẳng vào những gì mà hai băng đảng này đã làm trong quá khứ, cũng như hiện tại và trong tương lai. Chúng ta hãy vạch mặt chỉ tên những kẻ đã và đang tung hô: “ Nghiêng mình, kính ngưỡng Anh thư Lê Thị Công Nhân”, vì bọn chúng đã biết Lê thị Công Nhân là con ruột của tên Đại việt gian Lê Đức Anh. Chúng ta đã bị lừa bịp quá nhiều rồi. Giờ đây, chúng ta phải thật sáng suốt, chúng ta đừng bao giờ để cho bọn việt-gian-cộng-sản và lũ tay sai lừa bịp chúng ta một lần nào nữa cả.

27-4-2010
Lệ Tuyền

Trở lại Trang Quan điểm thời sự

No comments:

Post a Comment